Ngày 57

Điều Tốt Hơn Danh Tiếng và Trở Thành Người Nổi Tiếng

Khôn ngoan Thi Thiên 26:1-12
Tân ước Mác 9:2-32
Cựu Ước Xuất Ai Cập 39:1-40:38

Giới thiệu

Trong một cuộc khảo sát đối với thế hệ thuộc gen Y, 50% thanh niên nói rằng mục tiêu chính của cuộc đời là trở nên nổi tiếng. Trong quá khứ người ta muốn nổi tiếng vì một điều gì đó. Giờ đây, nổi tiếng đã trở thành đích đến cuối cùng. Sự nổi tiếng đem đến những thứ giống như là thần thánh. Mọi người không chỉ muốn nổi tiếng, họ còn thần tượng những người đã đạt được danh hiệu người nổi tiếng. Sự quan tâm rộng rãi này đối với các cá nhân nổi tiếng đã được mô tả là "sự sùng bái người nổi tiếng".

Sự nổi tiếng đối với những người tham vọng giống như muối bỏ bể. Bạn càng nhận được nhiều, bạn càng muốn nhiều hơn. Madonna, người từng có thời điểm có lẽ là người phụ nữ nổi tiếng nhất hành tinh, đã nói, "Tôi sẽ không hạnh phúc cho đến khi tôi nổi tiếng như Chúa."

Danh tiếng và sự nổi tiếng chỉ là sự phản chiếu nhạt nhòa của vinh quang thực sự. ‘Sự vinh quang’ được dùng trong Kinh thánh để biểu thị sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Vinh quang là một trong những từ phổ biến nhất trong Kinh thánh. Sự vinh quang của Đức Chúa Trời có nghĩa là tầm quan trọng, danh tiếng, uy nghi và danh dự của Ngài.

Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi xã hội ngày càng rời xa việc tôn thờ vinh quang của Đức Chúa Trời, thế gian chuyển sang tôn thờ ‘vinh quang’ của người nổi tiếng và danh vọng. Chúng ta được kêu gọi để tôn thờ sự vinh quang của Đức Chúa Trời và phản ánh sự vinh quang đó, dù bằng cách không hoàn hảo, trong cuộc sống của chúng ta.

Khôn ngoan

Thi Thiên 26:1-12

Thi Thiên của Đa-vít

1 Lạy Đức Giê-hô-va, xin biện minh cho con,
  Vì con đã bước đi trong sự liêm chính;
  Con tin cậy Đức Giê-hô-va, không hề nao núng.
2 Đức Giê-hô-va ôi! Xin tra xét và thử thách con,
  Dò xét lòng dạ và tâm trí con.
3 Vì sự nhân từ Chúa ở trước mặt con,
  Và con luôn đi theo chân lý của Ngài.
4 Con không ngồi chung với kẻ dối trá,
  Cũng chẳng giao du với bọn đạo đức giả.
5 Con ghét bọn làm ác,
  Chẳng chịu ngồi chung với kẻ gian tà.
6 Lạy Đức Giê-hô-va, con sẽ rửa tay trong sự vô tội,
  Và đi vòng quanh bàn thờ của Ngài,
7 Để lớn tiếng tạ ơn
  Và thuật lại các công việc lạ lùng của Chúa.
8 Lạy Đức Giê-hô-va, con yêu mến ngôi nhà Ngài ở,
  Và nơi vinh quang Ngài ngự.
9 Xin đừng cất linh hồn con đi chung với tội nhân,
  Cũng đừng dứt mạng sống con cùng với bọn khát máu.
10 Tay chúng làm chuyện xấu xa,
  Tay phải chúng đầy của hối lộ.
11 Còn con, con sẽ bước đi trong sự liêm chính,
  Xin cứu chuộc con và thương xót con.
12 Chân con đứng trên đất bằng phẳng;
  Con sẽ ca ngợi Đức Giê-hô-va giữa hội chúng.

Bình luận

Tìm kiếm vinh quang Đức Chúa Trời

Vua Đa-vít viết: ‘Lạy Đức Giê-hô-va, con yêu mến nơi ở của Ngài, nơi rực rỡ vinh quang Ngài’ (Thi Thiên 26:8, MSG). Đa-vít là một ‘người nổi tiếng’ theo đúng nghĩa của thời bấy giờ (xem 1 Sa-mu-ên 18:7). Tuy nhiên, ông không tìm kiếm vinh quang cho chính mình mà dẫn dắt dân sự tôn vinh Đức Chúa Trời: ‘Chân con đứng vững trên đất bằng, giữa hội chúng lớn con sẽ ca ngợi Đức Giê-hô-va’ (Thi Thiên 26:12).

Nếu bạn muốn phản chiếu vinh quang của Đức Chúa Trời, hãy noi theo gương Đa-vít. Hãy cố gắng sống một đời sống ngay thẳng (c.1). Hãy tin cậy nơi Đức Giê-hô-va mà không nao núng (c.1b). Hãy giữ lòng và ý tưởng trong sạch (c.2). Hãy để tình yêu và lẽ thật của Ngài hướng dẫn bạn (c.3). Tránh quá gần gũi với những người có thể kéo bạn xuống: ‘kẻ gian tà’, ‘bọn hung bạo’, ‘bọn tội lỗi’, ‘kẻ hai lòng’ (cc.4–5, MSG).

Dù Đa-vít nói rằng: ‘Con sống một đời ngay thẳng’ (c.11a), nhưng ngay sau đó ông cũng cầu xin: ‘Xin cứu chuộc con và thương xót con’ (c.11b). Hẳn ông ý thức rằng, dù ông cố gắng sống một đời không chỗ trách, ông vẫn thất bại và cần đến sự cứu chuộc và thương xót của Đức Chúa Trời. Thay vì tuyên bố mình vô tội, Đa-vít khẳng định rằng ông đang sống một đời ‘chính trực’ (cc.1,11, AMP), nghĩa là chân thành và hết lòng với Đức Chúa Trời.

Các vua chúa thời bấy giờ có thể mong đợi dân chúng tôn thờ họ như một ‘sự sùng bái người nổi tiếng’. Nhưng Đa-vít là một người thờ phượng Đức Chúa Trời. Ông viết: ‘Con đi vòng quanh bàn thờ Ngài, lạy Đức Giê-hô-va, để cất tiếng cảm tạ Ngài và công bố mọi công việc diệu kỳ của Ngài. Lạy Đức Giê-hô-va, con yêu mến nơi ở của Ngài, nơi vinh quang Ngài ngự trị’ (cc.6–8).

Đối với dân Y-sơ-ra-ên trong Cựu Ước, đền thờ tại Giê-ru-sa-lem là nơi bày tỏ vinh quang của Đức Chúa Trời. Nhưng vinh quang Đức Chúa Trời được bày tỏ trọn vẹn nhất nơi Chúa Giê-su (Giăng 1:14). Chính Ngài là đền thờ mới (2:10,21).

Thật kỳ diệu, vinh quang của Đức Chúa Trời cũng ngự trong tất cả những ai tin cậy Chúa Giê-su. Cả riêng lẻ (xem 1 Cô-rinh-tô 6:19) lẫn tập thể (xem 1 Cô-rinh-tô 3:16), những người theo Chúa Giê-su được xem là đền thờ của Đức Chúa Trời, nơi Thánh Linh Ngài ngự: ‘Anh em cũng được dự phần trong công trình này để trở nên một đền thờ, là nơi Đức Chúa Trời ngự trong Thánh Linh’ (Ê-phê-sô 2:22).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì vinh quang của Chúa ngự giữa dân Chúa. Con sẽ ca ngợi Ngài và rao truyền tất cả những công việc tuyệt vời tay Ngài làm.
Tân ước

Mác 9:2-32

Đức Chúa Jêsus hóa hình

2 Sáu ngày sau, Đức Chúa Jêsus đem riêng Phi-e-rơ, Gia-cơ, và Giăng cùng với Ngài lên một ngọn núi cao, và Ngài hóa hình trước mặt họ. 3 Y phục Ngài trở nên rực sáng và trắng tinh đến nỗi chẳng có thợ phiếu nào trên thế gian nầy có thể phiếu trắng được như vậy. 4 Ê-li và Môi-se hiện ra nói chuyện với Đức Chúa Jêsus.

5 Phi-e-rơ thưa với Đức Chúa Jêsus: “Thưa Thầy, chúng ta ở đây tốt lắm; xin để chúng con dựng ba cái trại: một cái cho Thầy, một cái cho Môi-se và một cái cho Ê-li.” 6 Vì cả ba đều quá sợ hãi nên Phi-e-rơ không biết mình đang nói gì.

7 Rồi có một đám mây che phủ họ; từ trong đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, hãy nghe lời Người!”

8 Bỗng nhiên, các môn đồ nhìn quanh, không thấy ai cả, chỉ còn một mình Đức Chúa Jêsus ở với họ mà thôi.

9 Khi cùng các môn đồ từ trên núi xuống, Ngài dặn họ không được nói lại với ai những điều mình đã thấy cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. 10 Các môn đồ ghi nhớ lời ấy và hỏi nhau “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì?

11 Rồi họ hỏi Ngài: “Tại sao các thầy thông giáo lại nói rằng Ê-li phải đến trước?”

12 Ngài đáp: “Thật Ê-li phải đến trước để phục hồi mọi việc. Còn lời chép về Con Người rằng Ngài phải chịu nhiều đau khổ và bị ngược đãi thì thể nào? 13 Nhưng Ta nói cho các con biết, Ê-li đã đến rồi, và người ta đã đối xử với người theo ý họ, đúng như lời đã chép về người vậy.”

Đức Chúa Jêsus chữa lành cậu bé bị quỷ ám

14 Khi Đức Chúa Jêsus và ba môn đồ trở lại chỗ các môn đồ khác thì thấy một đoàn dân rất đông đang vây quanh họ; có mấy thầy thông giáo đang tranh luận với họ. 15 Vừa thấy Ngài, cả đám đông rất ngạc nhiên, liền chạy đến chào đón Ngài.

16 Ngài hỏi họ: “Các ngươi tranh luận với các môn đồ về việc gì vậy?”

17 Một người trong đám đông trả lời: “Thưa Thầy, tôi đem con trai tôi đến cho Thầy. Cháu bị quỷ câm ám, 18 mỗi lần quỷ nhập vào thì vật cháu ngã xuống, làm cho sùi bọt mép, nghiến răng rồi cứng đờ người ra. Tôi đã nhờ các môn đồ Thầy đuổi quỷ ấy, nhưng họ không đuổi được.”

19 Đức Chúa Jêsus nói: “Hỡi thế hệ vô tín kia, Ta sẽ phải ở với các ngươi cho đến chừng nào? Ta sẽ còn chịu đựng các ngươi cho đến bao giờ? Hãy đem đứa trẻ đến cho Ta.”

20 Họ đem đứa trẻ đến cho Ngài. Vừa thấy Đức Chúa Jêsus, quỷ lập tức vật mạnh đứa trẻ, nó ngã xuống đất, lăn lộn, sùi bọt mép.

21 Đức Chúa Jêsus hỏi người cha: “Cháu bị thế nầy đã bao lâu rồi?” Người cha thưa: “Từ khi cháu còn bé.

22 Quỷ đã nhiều lần ném cháu vào lửa, vào nước, để giết cháu đi. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì, xin thương xót chúng tôi và giúp cho!”

23 Đức Chúa Jêsus đáp: “Sao lại nói ‘nếu Thầy có thể làm được’? Ai tin thì mọi việc đều được cả.”

24 Cha đứa trẻ liền la lên rằng: “Tôi tin, xin giúp cho sự vô tín của tôi!”

25 Khi thấy đoàn dân đổ xô đến, Đức Chúa Jêsus quở trách uế linh và phán: “Quỷ câm và điếc kia, Ta ra lệnh cho mầy phải rời khỏi đứa trẻ nầy, không được nhập vào nó nữa!”

26 Quỷ rú lên, quật mạnh đứa trẻ rồi ra khỏi; đứa trẻ trông như một xác chết, nên nhiều người nói rằng: “Nó chết rồi!” 27 Nhưng Đức Chúa Jêsus nắm tay đứa trẻ, đỡ nó lên, và nó đứng dậy.

28 Khi Đức Chúa Jêsus đã vào trong nhà rồi, các môn đồ hỏi riêng Ngài: “Tại sao chúng con không thể đuổi được quỷ ấy?”

29 Ngài đáp: “Nếu không cầu nguyện thì chẳng ai đuổi thứ quỷ ấy ra được.”

Đức Chúa Jêsus lại báo trước về sự chết và sự sống lại của Ngài

30 Rời nơi đó, Đức Chúa Jêsus và các môn đồ đi ngang qua miền Ga-li-lê. Ngài không muốn ai biết việc nầy, 31 vì Ngài đang dạy các môn đồ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết Ngài; và ba ngày sau khi bị giết, Ngài sẽ sống lại.” 32 Nhưng các môn đồ không hiểu lời ấy, lại sợ không dám hỏi Ngài.

Bình luận

Phản chiếu vinh quang của Chúa Giê-su

Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đã thoáng thấy vinh quang của Đức Chúa Trời khi Chúa Giê-su “hóa hình” trước mặt họ. Sự “hóa hình” này xảy ra ngay sau khi Chúa Giê-su hỏi các môn đồ: “Người ta nói Ta là ai?” (Mác 8:27). Đây là sự bày tỏ bản tính thiêng liêng của Ngài với tư cách là Con Đức Chúa Trời.

Bức màn thời gian được kéo qua một bên, và các môn đồ thấy Môi-se (đại diện cho “Luật pháp”) và Ê-li (đại diện cho “các tiên tri”) còn sống và đứng bên Chúa Giê-su. Các môn đồ chắc chắn đã biết rõ về Môi-se và Ê-li. Trong thế giới Do Thái, họ là những nhân vật vĩ đại nhất. Nhưng Đức Chúa Trời đang phán rằng Chúa Giê-su còn vĩ đại hơn cả hai người này.

Khi các môn đồ nhìn lại, họ chỉ thấy một mình Chúa Giê-su (Mác 9:8). Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đã thấy Chúa Giê-su trong vinh quang mà Ngài sẽ bày tỏ khi trở lại.

Từ “hóa hình” được dùng ở đây cũng chính là từ được dịch là “biến đổi” trong lời của sứ đồ Phao-lô: “Chúng ta ai nấy đều mở mặt rangắm xem vinh quang Chúa thì được biến đổi nên giống như ảnh tượng Ngài, từ vinh quang đến vinh quang như bởi Chúa là Thánh Linh” (2 Cô-rinh-tô 3:18).

Trong thế giới ngày nay, “sự nổi tiếng” thường đi kèm với danh vọng và mong muốn được công chúng biết đến. Nhưng Chúa Giê-su không tìm kiếm sự chú ý—thậm chí còn làm ngược lại. Ngài “cấm các môn đồ thuật lại điều đã thấy” (Mác 9:9, MSG).

“Sự nổi tiếng” cũng thường đi đôi với sự giàu có và lối sống xa hoa. Nhưng đối với Chúa Giê-su, sự chịu khổvinh quang luôn gắn kết chặt chẽ với nhau. Ngay khi Ngài bước xuống khỏi núi, Ngài giải thích với các môn đồ rằng “Con Người phải chịu nhiều đau khổ và bị người ta từ bỏ” (c.12). Vinh quang của Chúa Giê-su không phải là loại vinh quang mà thế gian mong đợi, cả khi ấy lẫn bây giờ.

Tuy nhiên, có một điểm mà Chúa Giê-su giống với những “người nổi tiếng” ngày nay: Ngài thu hút đám đông (c.14). “Khi vừa thấy Đức Chúa Giê-su, cả đoàn dân kinh ngạcchạy đến chào Ngài” (c.15).

Các môn đồ không đi lên núi với Chúa đã không đủ đức tin để chữa lành cho cậu bé bị quỷ ám. Chúa Giê-su phán: “Mọi sự đều có thể cho người tin” (c.23). Thế gian nói: “Tôi cần phải thấy trước rồi mới tin.” Nhưng Chúa Giê-su nói: “Hãy tin trước, rồi con sẽ thấy.” Thánh Augustine từng viết: “Đức tin là tin những điều ta chưa thấy. Phần thưởng của đức tin là được thấy điều mình tin.”

Người cha của cậu bé đã thốt lên sự giằng co mà mỗi chúng ta đều cảm nhận lúc này hay lúc khác: “Con tin! Xin giúp đỡ sự vô tín của con!” (c.24).

Chúa Giê-su chữa lành cho cậu bé mà không cần nghi thức nào hay thậm chí không cần đặt tay. Không có cuộc chiến kéo dài, chỉ có quyền năng đơn giản trong lời phán của Ngài. Chiến thắng đã được đảm bảo nhờ đời sống cầu nguyện của Ngài (c.29). Một lần nữa, chúng ta thoáng thấy vinh quang của Chúa Giê-su.

Ngay sau đó, Chúa lại nói về sự chịu khổ của Ngài: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta. Họ sẽ giết Ngài, và đến ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (c.31).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin giúp con hôm nay dành thời gian ở trước mặt Chúa và phản ánh vinh quang của Chúa trong mọi điều con làm và nói.
Cựu Ước

Xuất Ai Cập 39:1-40:38

Lễ phục cho các thầy tế lễ

30 Họ dùng chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm để may lễ phục bằng hàng dệt dành cho việc phụng vụ trong Nơi Thánh. Họ may bộ lễ phục thánh cho A-rôn như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

Ê-phót

2 Họ may ê-phót bằng sợi gai mịn, kim tuyến, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm. 3 Họ cán vàng thành lá mỏng và cắt thành từng sợi rồi may xen vào sợi gai mịn, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm, một cách rất mỹ thuật. 4 Họ may cầu vai cho ê-phót, đính hai đầu vào ê-phót. 5 Đai thắt ngoài ê-phót được may cùng một cách và chất liệu như ê-phót, tức là sợi kim tuyến, sợi gai mịn, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm, như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

6 Họ chuẩn bị các viên ngọc mã não để khảm vào khuôn khảm bằng vàng và khắc tên các con trai Y-sơ-ra-ên lên các viên ngọc như cách người ta khắc con dấu. 7 Họ gắn các viên ngọc đó trên cầu vai ê-phót như là những viên ngọc kỷ niệm về con trai Y-sơ-ra-ên, theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

Bảng đeo ngực

8 Họ cũng làm bảng đeo ngực rất mỹ thuật như công việc của ê-phót, tức là làm bằng kim tuyến, sợi gai mịn, chỉ xanh, chỉ đỏ tía, và đỏ thắm. 9 Bảng đeo ngực có hình vuông và may hai lớp, dài một gang tay, rộng một gang tay. 10 Họ đính lên đó bốn hàng ngọc: hàng thứ nhất có ngọc mã não, ngọc hồng bích và ngọc lục bửu; 11 hàng thứ nhì có ngọc phỉ túy, ngọc lam bửu và ngọc kim cương; 12 hàng thứ ba có ngọc hồng bửu, ngọc bạch mã não và ngọc tử tinh; 13 hàng thứ tư có ngọc hoàng bích, ngọc hồng mã não và bích ngọc. Các viên ngọc nầy đều được khảm vào khuôn khảm bằng vàng. 14 Tổng số ngọc đó là mười hai viên, tương ứng với tên các con trai Y-sơ-ra-ên. Mỗi viên ngọc có khắc tên của một trong mười hai bộ tộc Y-sơ-ra-ên, như người ta khắc con dấu vậy.

15 Trên bảng đeo ngực, họ làm các sợi dây chuyền bằng vàng ròng xoắn như dây thừng. 16 Họ cũng làm hai cái khuôn khảm và hai cái khoen bằng vàng, rồi gắn hai khoen đó vào hai góc của bảng đeo ngực. 17 Họ xâu hai sợi dây chuyền vàng vào hai khoen ở góc trên của bảng đeo ngực 18 và gắn hai đầu kia của hai sợi dây chuyền vào khuôn khảm, tức là gắn phía trước cầu vai của ê-phót. 19 Sau đó họ làm hai khoen vàng khác và gắn chúng vào hai góc dưới của bảng đeo ngực, phía trong ê-phót. 20 Họ còn làm hai khoen vàng khác nữa và gắn chúng trước phần dưới của cầu vai ê-phót, ngay chỗ giáp mối phía trên đai thắt của ê-phót. 21 Họ dùng một sợi dây màu xanh buộc các khoen của bảng đeo ngực với các khoen ê-phót, như thế bảng đeo ngực dính với đai thắt, không bị rớt khỏi ê-phót như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

Áo dài và các lễ phục khác

22 Họ cũng may áo dài của ê-phót toàn bằng sợi màu xanh. 23 Cổ áo dài nằm chính giữa áo như cổ áo giáp và có viền chung quanh để khỏi bị tưa. 24 Trên lai áo, họ thắt những trái lựu bằng sợi gai mịn, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm, 25 và làm những cái chuông nhỏ bằng vàng ròng gắn xen kẽ giữa hai trái lựu, vòng theo suốt lai áo; 26 nghĩa là cứ một trái lựu đến một cái chuông rồi một trái lựu, đính vòng quanh lai áo hành lễ, như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

27 Họ cũng may cho A-rôn và các con trai người những áo lót bằng vải gai mịn 28 cùng với mũ, khăn chít và quần lót; tất cả đều bằng vải gai mịn. 29 Dây thắt lưng được thêu mỹ thuật bằng sợi gai mịn, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

30 Họ cũng làm một thẻ như vương hiệu thánh bằng vàng ròng, khắc trên đó những chữ: “THÁNH CHO ĐỨC GIÊ-HÔ-VA.” như cách người ta khắc con dấu, 31 rồi buộc thẻ đó bằng một sợi dây màu xanh để giữ chặt trên mũ, như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

Hoàn tất công trình

32 Như vậy, tất cả công việc của Đền Tạm, tức là Lều Hội Kiến, đã được hoàn tất. Dân Y-sơ-ra-ên đã làm mọi việc đúng như Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se. 33 Họ đem Đền Tạm đến cho Môi-se: lều và các dụng cụ của lều, móc, ván, thanh ngang, trụ và lỗ trụ; 34 tấm bạt bằng da chiên đực nhuộm đỏ, tấm bạt bằng da cá nược, và bức màn che Nơi Chí Thánh; 35 Hòm Chứng Ước có đòn khiêng, và nắp thi ân; 36 bàn và đồ dùng của bàn và bánh cung hiến; 37 chân đèn bằng vàng ròng có các đèn đã được sắp xếp, các đồ dùng của chân đèn và dầu thắp, 38 bàn thờ bằng vàng, dầu xức, hương thơm, tấm màn cho cửa lều; 39 bàn thờ bằng đồng và rá đồng, đòn khiêng, các dụng cụ của bàn thờ, bồn và chân bồn; 40 các tấm rèm của hành lang, trụ, lỗ trụ, màn cửa hành lang, dây, cọc, và tất cả các dụng cụ cho việc tế lễ của Đền Tạm và Lều Hội Kiến; 41 các lễ phục bằng hàng dệt dành cho việc phụng vụ trong Nơi Thánh, bộ áo thánh cho thầy tế lễ A-rôn, và những lễ phục của các con trai người để thi hành chức vụ tế lễ.

42 Dân Y-sơ-ra-ên đã hoàn tất mọi việc đúng như những gì Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se. 43 Môi-se xem xét tất cả các công việc và thấy họ đã hoàn tất đúng như lời Đức Giê-hô-va truyền dạy. Vậy Môi-se chúc phước cho họ.

Lễ cung hiến Đền Tạm

40 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: 2 “Vào ngày mồng một tháng giêng, con hãy dựng Đền Tạm, tức Lều Hội Kiến. 3 Hãy đặt Hòm Chứng Ước vào đó rồi lấy màn che lại. 4 Con cũng đem cái bàn vào và sắp đặt ngăn nắp các thứ. Rồi con đem chân đèn ra và đặt đèn lên đó. 5 Cũng hãy đặt bàn thờ bằng vàng dùng cho việc xông hương trước Hòm Chứng Ước, rồi treo màn nơi cửa Đền Tạm.

6 Con cũng đặt bàn thờ dâng tế lễ thiêu trước cửa Đền Tạm, tức là Lều Hội Kiến, 7 và đặt bồn rửa ở khoảng giữa Lều Hội Kiến và bàn thờ rồi đổ nước vào. 8 Con cũng dựng hành lang chung quanh và treo màn ở cửa hành lang.

9 Sau đó, con lấy dầu xức mà xức Đền Tạm và tất cả những gì trong đó. Hãy biệt ra thánh Đền Tạm và các vật dụng trang trí trong Đền Tạm để Đền Tạm trở nên thánh. 10 Con cũng hãy xức dầu bàn thờ dâng tế lễ thiêu và các dụng cụ của bàn thờ, rồi biệt bàn thờ ra thánh, để bàn thờ trở nên rất thánh. 11 Con cũng xức dầu cho bồn cùng chân bồn, và biệt chúng ra thánh.

12 Rồi con dẫn A-rôn và các con trai người đến cửa Lều Hội Kiến và lấy nước tẩy rửa họ. 13 Con hãy mặc lễ phục thánh cho A-rôn, xức dầu và biệt riêng người ra thánh để người thi hành chức vụ tế lễ cho Ta. 14 Con cũng đưa các con trai A-rôn đến và mặc áo lá, 15 xức dầu cho họ như con đã xức dầu cho cha họ để họ thi hành chức vụ tế lễ cho Ta. Sự xức dầu sẽ thừa nhận họ làm chức tế lễ đời đời qua mọi thế hệ.” 16 Môi-se thi hành mọi việc đúng như những gì Đức Giê-hô-va đã truyền dạy mình.

17 Vào ngày mồng một tháng giêng năm thứ hai, Đền Tạm đã được dựng lên. 18 Môi-se dựng Đền Tạm. Ông đặt các lỗ trụ, đóng ván, đặt thanh ngang và dựng trụ. 19 Ông căng lều phủ trên Đền Tạm rồi trải tấm bạt lên trên, đúng như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

20 Ông cũng lấy Bảng Chứng Ước đặt vào trong hòm, xỏ đòn khiêng, đặt nắp thi ân lên trên 21 rồi đưa Hòm Chứng Ước vào Đền Tạm và buông màn che lại. Hòm Chứng Ước đã được che khuất đúng như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

22 Ông cũng đặt cái bàn trong Lều Hội Kiến, về phía bắc của Đền Tạm, bên ngoài bức màn, 23 rồi sắp xếp bánh lên một cách ngay ngắn trước mặt Đức Giê-hô-va, đúng như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

24 Ông cũng đặt chân đèn trong Lều Hội Kiến, đối diện với cái bàn, ở phía nam Đền Tạm 25 và đặt các đèn lên trước mặt Đức Giê-hô-va, đúng như lời Ngài đã truyền dạy Môi-se.

26 Ông cũng đặt bàn thờ bằng vàng trước bức màn trong Lều Hội Kiến 27 và xông hương trên đó đúng như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

28 Ông cũng treo màn nơi cửa Đền Tạm. 29 Ông đặt bàn thờ dâng tế lễ thiêu tại cửa Đền Tạm, tức là Lều Hội Kiến và dâng trên đó tế lễ thiêu và tế lễ chay, đúng như lời Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.

30 Ông đặt bồn rửa giữa khoảng Lều Hội Kiến và bàn thờ rồi đổ nước vào để tẩy rửa. 31 Môi-se, A-rôn và các con trai của A-rôn rửa tay chân tại đó. 32 Khi vào Lều Hội Kiến cũng như lúc đến gần bàn thờ, họ đều tẩy rửa đúng như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se.

33 Chung quanh Đền Tạm và bàn thờ, ông đều dựng hành lang và treo màn ở cửa hành lang. Như thế, Môi-se đã hoàn thành mọi công việc.

Đám mây và vinh quang của Đức Giê-hô-va

34 Rồi có một đám mây bao phủ Lều Hội Kiến và vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy Đền Tạm. 35 Môi-se không thể vào Lều Hội Kiến được vì đám mây bao phủ trên đó; vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy Đền Tạm.

36 Trong mỗi chặng đường của cuộc hành trình, mỗi khi đám mây từ Đền Tạm được cất lên thì con dân Y-sơ-ra-ên ra đi. 37 Nhưng nếu đám mây không cất lên thì họ không ra đi cho đến ngày nào đám mây được cất lên. 38 Vì trong mỗi chặng đường của cuộc hành trình, đám mây của Đức Giê-hô-va ngự trên Đền Tạm vào ban ngày và có lửa trong đám mây vào ban đêm trước mặt cả nhà Y-sơ-ra-ên.

Bình luận

Chờ đợi một vinh quang đời đời

Vua Đa-vít đã thoáng thấy vinh quang của Đức Chúa Trời khi ông bước vào đền thờ. Các môn đồ cũng thoáng thấy vinh quang của Ngài khi Chúa Giê-su “hóa hình” trước mặt họ. Khi anh chị em cùng nhóm lại với dân sự của Đức Chúa Trời, anh chị em cũng nên có một cái nhìn thoáng qua về vinh quang của Ngài.

Khi dựng xong đền tạm (“Nơi Ngự,” MSG), đám mây bao phủ Trại Hội Kiến, và vinh quang của Đức Giê-hô-va tràn ngập nơi ấy (Xuất Ê-díp-tô Ký 40:34). Môi-se không thể vào Trại Hội Kiến vì đám mây ngự xuống và vinh quang của Đức Giê-hô-va tràn ngập nơi ấy (c.35).

Vinh quang của Đức Chúa Trời lúc đó thật quyền năng đến mức có thể cảm nhận một cách rõ ràng. Người ta có thể nhìn thấy vinh quang ấy “ngự xuống” trên đền tạm. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, từ “ngự xuống” (shekinah) đôi khi được dùng để diễn tả một sự hiện diện đặc biệt mạnh mẽ và rõ ràng của vinh quang Đức Chúa Trời.

Đám mây phía trên đền tạm, tượng trưng cho vinh quang của Đức Chúa Trời, đã đi cùng dân sự Ngài trên mọi hành trình và dẫn dắt họ cả ngày lẫn đêm (c.36–38), cũng như Đức Thánh Linh ngày nay dẫn dắt anh chị em. Đây chính là bối cảnh trong Cựu Ước cho đám mây xuất hiện trong câu chuyện Chúa Giê-su hóa hình. Khi Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng chứng kiến điều đó, họ đã thấy một cái nhìn thoáng qua về vinh quang của Chúa (Mác 9:7).

Qua “tin lành của vinh quang Đấng Christ” (2 Cô-rinh-tô 4:4), anh chị em cũng có thể thoáng thấy vinh quang của Đức Chúa Trời. “Vì Đức Chúa Trời, Đấng đã phán: ‘Sự sáng phải chiếu rọi từ nơi tối tăm,’ đã chiếu sáng trong lòng chúng ta, hầu cho sự sáng của sự nhận biết vinh quang Đức Chúa Trời nơi mặt Chúa Cứu Thế Giê-su được rực rỡ” (c.6).

Tuy nhiên, đây chỉ là một cái nhìn thoáng qua—một ngày kia anh chị em sẽ nhìn thấy vinh quang ấy trong thực tế. Sứ đồ Phao-lô viết rằng đó là lý do anh chị em không nên nản lòng, ngay cả khi phải trải qua thử thách: “Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm này sanh cho chúng ta sự vinh quang đời đời cao trọng vô cùng” (c.17).

Cầu nguyện

Thưa Chúa, con cảm ơn Chúa vì Ngài đang chuẩn bị chúng con cho thời điểm mà Chúa sẽ bày tỏ sự vinh hiển trọn vẹn của mình. Xin hãy giúp con nhìn những cuộc chiến của đời sống dưới góc độ "vinh quang cao trọng và vĩnh cửu".

Pippa chia sẻ

Thi Thiên 26: 1–12

Thi thiên 26 được cho là của Đa-vít. Tôi quan tâm đến câu 1 nói rằng, ‘Vì con đã bước đi trong sự liêm chính; Con tin cậy Đức Giê-hô-va, không hề nao núng.” Tôi ước mình cũng có thể nói như vậy, nhưng tôi biết cuộc đời của tôi còn nhiều thiếu sót và đã có rất nhiều sóng gió trên hành trình. Vấn đề là chúng ta biết rằng cuộc đời của Đa-vít không hề hoàn hảo. Vì vậy, hoặc ông ấy đã làm rất tốt khi ông viết điều này và sau đó khiến bản thân rơi vào tình trạng lộn xộn thực sự, hoặc ông ấy đã không hoàn thành tốt như ông nghĩ. Trong câu 11, ông nói, “Xin cứu chuộc con và thương xót con.” Đa-vít biết ông ấy cần sự thương xót của Đức Chúa Trời, và tôi cũng vậy.

Câu kinh thánh trong ngày

Mác 9:24

Tôi tin, xin giúp cho sự vô tín của tôi!

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

Sign up now
reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

The One Year® là nhãn hiệu đã đăng ký của Tyndale House Publishers. Được sử dụng bởi sự cho phép.

Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.

Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more