Làm Thế Nào Để Tận Dụng Tối Đa Cuộc Đời Của Bạn
Giới thiệu
"Mọi người hay hỏi tôi rằng Mẹ Teresa trông như thế nào", Shane Claiborne đã viết trong cuốn The Irresistible Revolution (tạm dịch: Cuộc Cách mạng không thể cưỡng lại) như thế. "Đôi khi họ thắc mắc rằng liệu bà ấy có toả sáng trong bóng tối hay có vầng hào quang quanh người hay không. Bà ấy thấp, có nhiều nếp nhăn, và tốt bụng, thậm chí có thể trông khá bình thường, giống như một người bà bình thường, với vẻ xinh đẹp và khôn ngoan. Nhưng có một điều về Mẹ Teresa mà tôi không bao giờ quên – đôi chân của bà ấy. Bàn chân của bà bị biến dạng.
Mỗi buổi sáng tôi nhìn chằm chằm vào bàn chân của bà. Tôi thắc mắc liệu bà có bị bệnh phong hay không. Cho đến một hôm nọ, có người đã giải thích cho tôi rằng: "Bàn chân của bà ấy bị biến dạng bởi vì số lượng giày chúng tôi được quyên góp chỉ vừa đủ cho mọi người, và Mẹ không muốn ai phải mang đôi giày xấu xí nhất nên Mẹ đã lục lọi và lấy hết những đôi đó. Và nhiều năm làm việc đó đã khiến chân của bà bị biến dạng." Nhiều năm yêu thương người lân cận như chính mình đã làm biến dạng đôi chân của bà ấy."
Khi được hỏi về người mà mình ngưỡng mộ nhất trong cuộc đời, nhiều người trả lời rằng đó là "Mẹ Teresa". Bà ấy đã tận dụng tối đa cuộc đời của mình. Đó cũng là một nghịch lý, bởi cuộc đời của Mẹ Teresa là một cuộc đời từ bỏ chính mình và vác thập giá mình theo Chúa Giê-su.
Cuộc đời là một món quà vô cùng tuyệt vời và lớn lao. Xuyên suốt Kinh Thánh, chúng ta thường được thúc giục để tận dụng tối đa cuộc đời của mình, chứ không phải để lãng phí món quà mình được ban tặng.
Châm Ngôn 6:1-11
Việc bảo lãnh cho người lân cận
1 Hỡi con ta, nếu con bảo lãnh cho người lân cận mình,
Nếu con đưa tay cam kết với người xa lạ,
2 Thì con bị trói buộc vì lời miệng mình đã hứa,
Và vướng mắc vì lời miệng con đã nói ra.
3 Vậy hỡi con ta, vì con đã rơi vào tay người lân cận,
Hãy làm điều nầy để tự giải cứu mình:
Hãy đi, hạ mình và nài nỉ người lân cận con!
4 Đừng cho hai mắt con ngủ,
Hoặc mí mắt con chợp lại.
5 Hãy tự giải cứu mình như linh dương thoát khỏi tay thợ săn,
Như chim thoát khỏi tay người đánh bẫy.
Bài học từ loài kiến
6 Hỡi kẻ lười biếng, hãy đến với loài kiến,
Xem xét cách nó sống để học khôn!
7 Dù không có thủ lĩnh,
Quan chức hay người cai trị,
8 Nó vẫn biết dự trữ lương thực cho mình vào mùa hè,
Và thu gom thực phẩm trong mùa gặt.
9 Hỡi kẻ lười biếng, ngươi còn nằm mãi cho đến bao giờ?
Chừng nào ngươi mới thức giấc?
10 Ngủ một chút, chợp mắt một chút,
Khoanh tay nằm nghỉ một chút,
11 Thì sự nghèo khổ sẽ đến với ngươi như kẻ trộm cắp,
Cảnh túng thiếu sẽ tấn công ngươi như kẻ cướp có vũ trang.
Bình luận
Làm chủ tính kỷ luật
Sách Châm Ngôn mang đến cho bạn những bài học thực tế về cách để tận dụng tối đa cuộc đời của bạn và cách để tránh rơi vào những cạm bẫy làm lãng phí cuộc đời bạn. Trong phân đoạn hôm nay, chúng ta thấy hai ví dụ như sau:
- Làm chủ tài chính của bạn
Một trong những khía cạnh của cuộc sống đòi hỏi sự kỷ luật đó là tài chính. Luôn có rất nhiều cạm bẫy tài chính ngoài kia – chẳng hạn như số nợ mà bạn không thể kiểm soát, việc đầu tư thiếu khôn ngoan và những sự thế chấp dại dột. Tác giả Châm Ngôn thúc giục bạn rằng: Nếu bạn đang vướng phải một mớ hỗn độn về tài chính (c.2–5), hãy cố gắng hết sức để thoát ra khỏi nó càng sớm càng tốt.
Bạn có thể phải hạ mình xuống (c.3b). Bạn có thể phải bào chữa mình (c.3c). Hãy làm những gì mình có thể để thoát khỏi những cạm bẫy này (c.5). Nếu chúng ta không giải quyết các vấn đề tài chính của mình, nó có thể sẽ tác động rất xấu đến cuộc sống của chúng ta và gia đình chúng ta.
- Làm chủ thời gian của bạn
Chúng ta có thể lãng phí cuộc đời của mình vì sự thiếu kỷ luật. Nếu không có trách nhiệm, chúng ta sẽ dễ trở nên lười biếng, và điều này có thể gây ra những hậu quả tai hại (c.9–11). Chúng ta có thể học sự kỷ luật từ con kiến; không ai bảo nó phải làm gì cả. "Dù không có thủ lĩnh, quan chức hay người cai trị" (c.7), nó vẫn làm việc rất chăm chỉ: "Nó vẫn biết dự trữ lương thực cho mình vào mùa hè, và thu gom thực phẩm trong mùa gặt." (c.8).
Tất nhiên, việc ngủ đủ giấc vẫn vô cùng quan trọng. Cơ thể chúng ta cần được nghỉ ngơi. Nhưng chúng ta cần cẩn thận để tránh lãng phí thời gian vào những hoạt động vô bổ.
Cầu nguyện
Mác 8:14-9:1
Men của người Pha-ri-si
8 Các môn đồ quên đem bánh theo; trong thuyền họ chỉ có một cái bánh thôi. 15 Ngài nhắc nhở họ: “Hãy thận trọng và đề phòng men của người Pha-ri-si và men của đảng Hê-rốt.” 16 Các môn đồ bàn luận với nhau: “Chắc tại chúng ta không có bánh.” 17 Biết điều đó, Đức Chúa Jêsus nói: “Sao các con lại bàn luận với nhau về việc các con không có bánh? Các con vẫn còn chưa biết, chưa hiểu sao? Lòng các con vẫn cứng cỏi sao? 18 Sao các con có mắt mà không thấy? Có tai mà không nghe? Các con không nhớ sao? 19 Khi Ta bẻ năm cái bánh cho năm nghìn người, các con thu được bao nhiêu giỏ đầy bánh thừa?” Họ thưa: “Mười hai giỏ.” 20 “Còn khi Ta bẻ bảy cái bánh cho bốn nghìn người, các con thu được bao nhiêu giỏ đầy bánh thừa?” Họ thưa: “Bảy giỏ.” 21 Ngài phán: “Các con vẫn còn chưa hiểu sao?”
Người mù ở Bết-sai-đa
22 Đức Chúa Jêsus và môn đồ đến làng Bết-sai-đa. Người ta đem cho Ngài một người mù và nài xin Ngài chạm vào anh. 23 Ngài nắm tay người mù, dắt anh ra khỏi làng, thoa nước miếng lên mắt và đặt tay trên anh, rồi hỏi: “Con có thấy gì không?” 24 Người mù ngước lên rồi thưa: “Con thấy người ta, nhưng trông họ như cây cối, đang di chuyển.” 25 Đức Chúa Jêsus lại đặt tay trên mắt anh; anh chăm chú nhìn, thị giác được phục hồi và anh thấy rõ mọi vật. 26 Đức Chúa Jêsus cho anh về và dặn: “Đừng trở vào trong làng.”
Sự tuyên xưng của Phi-e-rơ
27 Đức Chúa Jêsus cùng các môn đồ đi khỏi đó, vào các làng gần thành Sê-sa-rê Phi-líp. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đồ rằng: “Thiên hạ nói Ta là ai?” 28 Họ thưa: “Người thì nói Thầy là Giăng Báp-tít; người thì nói là Ê-li; người khác thì nói là một trong các nhà tiên tri.” 29 Ngài hỏi: “Còn các con thì nói Ta là ai?” Phi-e-rơ thưa rằng: “Thầy là Đấng Christ.” 30 Đức Chúa Jêsus truyền cho các môn đồ không được nói về Ngài với ai cả.
Đức Chúa Jêsus báo trước về sự chết và sống lại của Ngài
31 Bấy giờ, Ngài bắt đầu dạy các môn đồ rằng Con Người phải chịu nhiều đau khổ, phải bị các trưởng lão, các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo chối bỏ, phải bị giết, và sau ba ngày phải sống lại. 32 Ngài nói rõ ràng việc nầy với các môn đồ. Phi-e-rơ đem Ngài riêng ra, và trách Ngài. 33 Nhưng Đức Chúa Jêsus quay lại nhìn các môn đồ, và quở trách Phi-e-rơ: “Hỡi Sa-tan, hãy lui ra đằng sau Ta, vì ngươi chẳng nghĩ đến việc của Đức Chúa Trời, mà chỉ nghĩ đến việc loài người.” 34 Sau đó, Ngài gọi dân chúng và các môn đồ đến và nói: “Nếu ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. 35 Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai vì Ta và Tin Lành mà mất mạng sống, thì sẽ cứu được mạng sống mình. 36 Một người nếu được cả thế gian mà mất linh hồn mình thì có ích gì? 37 Người ấy sẽ lấy gì mà đổi lại linh hồn mình? 38 Vì nếu ai hổ thẹn về Ta và đạo Ta giữa thế hệ gian dâm tội lỗi nầy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn về người ấy khi Ngài cùng với các thiên sứ thánh ngự đến trong vinh quang của Cha Ngài.”
9 Ngài phán với các môn đồ: “Thật, Ta bảo các con, một số trong những người đang đứng đây sẽ không chết trước khi thấy vương quốc Đức Chúa Trời đến với uy quyền.”
Bình luận
Hãy dâng hiến đời sống mình
Chúa Giê-su cảnh báo các môn đồ về ‘men’ (Mác 8:15) của người Pha-ri-si và của Hê-rốt. ‘Men’ là một ẩn dụ phổ biến chỉ khuynh hướng tội lỗi trong con người—dù ban đầu có vẻ nhỏ bé nhưng có thể làm bại hoại toàn bộ con người. Các môn đồ vẫn chưa hiểu vì họ quá chú tâm vào những điều thuộc về thể xác mà không thấy được lẽ thật thuộc linh.
Dĩ nhiên, bản thân những điều thuộc thể không có gì sai. Người mù muốn được chạm vào Chúa Giê-su (c.22). Chúa Giê-su đã làm một điều rất thực tế—Ngài thoa nước miếng vào mắt người ấy, rồi đặt tay trên mắt ông hai lần (c.23–25). Ngài cầu nguyện hai lần trước khi người mù được chữa lành hoàn toàn. Điều này khích lệ chúng ta tiếp tục cầu nguyện nhiều lần cho những người bệnh tật.
Cuối cùng, các môn đồ hiểu Chúa Giê-su là ai: ‘Thầy là Đấng Christ’ (c.29). ‘Christos’ có nghĩa là ‘Đấng được xức dầu, Đấng Mê-si-a’. Vào thời Chúa Giê-su, danh xưng này gắn liền với kỳ vọng về một vị vua mới thuộc dòng Đa-vít. Tuy nhiên, trong Cựu Ước, các vua, thầy tế lễ và nhà tiên tri đều được xức dầu. Chúa Giê-su chính là sự ứng nghiệm của tất cả—Ngài là Vua, là Thầy Thượng Tế vĩ đại, là Đấng Tiên Tri.
Nhưng danh xưng ‘Đấng Mê-si-a’ vẫn chưa đủ. Chúa Giê-su thích gọi mình là ‘Con Người’ (Son of Man) (c.31), một danh xưng vừa uy nghiêm vừa phù hợp hơn. Danh xưng này bao hàm cả ý nghĩa chịu khổ (Đa-ni-ên 7:21). ‘Con Người’ cũng là một hình tượng đại diện, đồng hóa chính mình với nhân loại.
Sau đó, Chúa Giê-su bắt đầu nói về thập tự giá (Mác 8:31). Chúng ta không thể hiểu thập tự giá nếu chưa hiểu Chúa Giê-su là ai. Lời dạy của Ngài nghịch lý đến mức gây ngỡ ngàng, khiến Phi-e-rơ kéo Ngài ra riêng để trách Ngài (c.32).
Ở đây có một sự song song với việc chữa lành người mù, như một ẩn dụ trực quan về quá trình môn đồ dần dần được khai mở mắt thuộc linh. Đầu tiên, mắt của Phi-e-rơ được mở ra để nhận biết Chúa Giê-su là ai (c.29). Nhưng ông chỉ mới hiểu một nửa. Ông chưa nhận ra sứ mạng của Chúa Giê-su (c.31–32). Phi-e-rơ có thể ‘thấy’, nhưng chưa ‘thấy rõ’.
Chúa Giê-su phải giải thích cho các môn đồ một nghịch lý phi thường trong việc tận dụng cuộc đời—mà chính Ngài là tấm gương cao nhất. Ngài phán rằng nếu muốn có được cuộc đời, bạn phải dâng hiến nó. Bạn phải phó dâng đời mình cho sự phục vụ Ngài và Tin Lành—‘Ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai vì cớ Ta và Tin Lành mà mất sự sống mình thì sẽ cứu được’ (c.35).
Ngược lại, Ngài cảnh báo rằng có thể ‘được cả thế gian mà mất linh hồn mình’ (c.36). Diễn viên Jim Carrey từng nói: ‘Tôi nghĩ ai cũng nên trở nên giàu có, nổi tiếng và đạt được mọi ước mơ của mình để rồi nhận ra rằng đó không phải là câu trả lời.’
Ngay cả những tỷ phú giàu nhất cũng chỉ sở hữu một phần nhỏ của thế giới. Chúa Giê-su cảnh báo rằng nếu chúng ta bị cám dỗ chạy theo hướng đó, dù có đạt đến đỉnh cao hơn họ và ‘được cả thế gian’, chúng ta vẫn có thể hoàn toàn đánh mất đời mình và linh hồn mình (c.36). Ngài dạy rằng con đường để tìm được sự sống là từ bỏ chính mình, vác thập tự giá và theo Ngài (c.34).
Cụm từ ‘từ bỏ chính mình’ có nghĩa là nói không với bản thân. Sống đời sống Cơ Đốc là một thách thức từ bỏ mỗi ngày. Thế gian nghĩ rằng cách để tìm sự sống là không từ chối điều gì cho bản thân. Nhưng Chúa Giê-su phán điều ngược lại. Cách để tìm sự sống là từ bỏ chính mình, vác thập tự giá và theo Ngài.
Bạn được kêu gọi để yêu thương. Bạn được kêu gọi sống vì Đức Chúa Trời và vì người khác. Khi bạn dâng hiến đời mình, Đức Chúa Trời sẽ chăm lo cho bạn.
Lời dạy của Chúa Giê-su thật cấp tiến và mang tính cách mạng. Nó hoàn toàn ngược lại với những gì con người mong đợi, nhưng chúng ta có thể thấy kết quả của nó trong thực tế. Những ai tìm kiếm sự thỏa mãn cá nhân cuối cùng lại vỡ mộng, bất mãn và phí phạm đời mình; trong khi những ai theo lời dạy của Chúa Giê-su sẽ tìm thấy sự sống sung mãn.
Cầu nguyện
Xuất Ai Cập Ký 37:1-38:31
Đóng Hòm Chứng Ước
37 Bết-sa-lê-ên đóng một cái hòm bằng gỗ si-tim dài một trăm mười cen-ti-mét, rộng sáu mươi sáu cen-ti-mét và cao sáu mươi sáu cen-ti-mét. 2 Ông bọc vàng ròng cả trong lẫn ngoài và chạy một đường viền vàng chung quanh. 3 Ông đúc bốn cái khoen bằng vàng gắn ở bốn góc: hai cái bên nầy, hai cái bên kia. 4 Ông cũng làm các cây đòn bằng gỗ si-tim bọc vàng, 5 rồi xỏ đòn vào các khoen hai bên để khiêng hòm.
Làm nắp thi ân
6 Ông cũng làm một nắp thi ân bằng vàng ròng dài một trăm mười cen-ti-mét, rộng sáu mươi sáu cen-ti-mét. 7 Sau đó ông làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng, đặt ở hai đầu nắp thi ân: 8 một cái ở đầu nầy và một cái ở đầu kia, gắn liền với hai đầu nắp. 9 Hai chê-ru-bim xòe rộng đôi cánh che phủ nắp thi ân. Mặt đối mặt, các chê-ru-bim cùng hướng vào nắp thi ân.
Đóng bàn để bánh cung hiến
10 Ông cũng đóng một cái bàn bằng gỗ si-tim: dài tám mươi tám cen-ti-mét, rộng bốn mươi bốn cen-ti-mét và cao sáu mươi sáu cen-ti-mét, 11 bọc bằng vàng ròng và chạy một đường viền bằng vàng chung quanh. 12 Ông cũng đóng nẹp chung quanh bàn cao chừng bốn ngón tay và chạy một đường viền vàng theo nẹp ấy. 13 Ông đúc bốn cái khoen vàng gắn vào bốn góc, chỗ có bốn chân bàn. 14 Các khoen gắn gần khung để xỏ các đòn khiêng. 15 Ông làm các đòn bằng gỗ si-tim bọc vàng để khiêng bàn đó. 16 Ông cũng lấy vàng ròng để làm các đồ dùng bày trên bàn như: khay, đĩa dâng hương, lọ và bát để làm lễ quán.
Làm chân đèn
17 Ông cũng làm chân đèn bằng vàng ròng; đế và thân của chân đèn được làm bằng vàng dát; đài đèn, nụ đèn, và cánh hoa đèn đều được gắn vào chân đèn. 18 Có sáu nhánh nứt ra hai bên chân đèn, ba nhánh bên nầy và ba nhánh bên kia. 19 Trong sáu nhánh nứt ra từ chân đèn đó, trên mỗi nhánh đều có ba cái đài đèn tạo thành hình hoa hạnh nhân với nụ và cánh hoa đèn. 20 Ngay trên chân đèn cũng có bốn đài đèn hình hoa hạnh nhân với nụ và cánh hoa đèn. 21 Trong sáu nhánh từ chân đèn nứt ra, cứ dưới mỗi hai nhánh thì gắn một nụ đèn. 22 Các nụ và nhánh của chân đèn đều được gắn với chân đèn; tất cả đều được làm bằng vàng ròng dát mỏng. 23 Ông cũng làm bảy ngọn đèn, kéo cắt tim đèn và khay đựng tàn bằng vàng ròng. 24 Ông dùng một ta-lâng vàng ròng để làm chân đèn và các dụng cụ khác.
Làm bàn thờ xông hương
25 Ông cũng đóng một bàn thờ xông hương bằng gỗ si-tim hình vuông, mỗi cạnh bốn mươi bốn cen-ti-mét và cao tám mươi tám cen-ti-mét; các sừng được gắn liền với bàn thờ. 26 Ông cũng bọc bàn thờ, mặt bàn thờ, bốn cạnh chung quanh, các sừng bằng vàng ròng và chạy một đường viền vàng chung quanh. 27 Dưới đường viền đó, ông gắn hai khoen bằng vàng ở hai bên bàn thờ để xỏ đòn khiêng. 28 Ông làm các đòn bằng gỗ si-tim bọc vàng.
Dầu thánh và hương thơm
29 Ông cũng pha chế dầu thánh để xức, và hương thơm nguyên chất theo phương thức pha chế nước hoa.
Bàn thờ dâng tế lễ thiêu
38 Ông cũng đóng bàn thờ dâng tế lễ thiêu bằng gỗ si-tim hình vuông, mỗi cạnh hai mét hai và cao một mét ba. 2 Ông làm các sừng gắn ở bốn góc bàn thờ; các sừng ấy hợp thành một khối với bàn thờ. Bàn thờ được bọc đồng. 3 Sau đó ông làm các dụng cụ của bàn thờ như các bình đựng tro, xẻng, chậu, nĩa, và lư hương. Tất cả đều bằng đồng. 4 Ông cũng làm cho bàn thờ một cái rá có lưới bằng đồng để dưới thành bàn thờ, khoảng nửa chiều cao của bàn thờ, 5 và đúc bốn cái khoen ở bốn góc rá đồng để xỏ đòn khiêng. 6 Ông làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim bọc đồng, 7 và xỏ đòn đó vào khoen ở hai bên bàn thờ để khiêng đi. Ông đóng bàn thờ rỗng bằng ván ghép lại.
Cái bồn bằng đồng
8 Ông dùng những tấm gương soi của các phụ nữ phục vụ tại cửa Lều Hội Kiến để làm một cái bồn rửa có chân bồn bằng đồng.
Hành lang của Đền Tạm
9 Ông cũng làm hành lang. Phía nam của hành lang có các tấm rèm làm bằng vải gai mịn, dài khoảng bốn mươi bốn mét, 10 với hai mươi cây trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng; nhưng các móc trụ và thanh liên kết thì bằng bạc. 11 Phía bắc cũng có bốn mươi bốn mét rèm với hai mươi cây trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng; nhưng các móc trụ và thanh liên kết thì bằng bạc. 12 Phía tây có hai mươi hai mét rèm với mười cây trụ và mười lỗ trụ bằng đồng; các móc trụ và thanh liên kết bằng bạc. 13 Phía trước, tức là phía đông, là hướng mặt trời mọc, cũng có hai mươi hai mét rèm; 14 các tấm rèm che bên nầy cửa hành lang dài sáu mét sáu với ba cây trụ và ba lỗ trụ; 15 bên kia cũng có sáu mét sáu rèm với ba cây trụ và ba lỗ trụ. 16 Tất cả các tấm rèm chung quanh hành lang đều bằng vải gai mịn; 17 các lỗ trụ đều bằng đồng nhưng móc trụ và thanh liên kết thì bằng bạc; các đầu trụ cũng bọc bạc. Tất cả các trụ của hành lang đều nối nhau nhờ các thanh liên kết bằng bạc. 18 Tấm màn nơi cửa hành lang được thêu mỹ thuật bằng sợi gai mịn, chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm; màn dài tám mét tám, cao hai mét hai, tương xứng với các tấm rèm chung quanh hành lang. 19 Bốn cây trụ và bốn lỗ trụ bằng đồng, móc trụ bằng bạc, đầu trụ bọc bạc, và những thanh liên kết cũng bằng bạc. 20 Các cây cọc của Đền Tạm và hành lang chung quanh đều bằng đồng.
Kết toán vật dụng của Đền Tạm
21 Đây là tổng số các vật liệu dùng cho Đền Tạm, là Đền Tạm Chứng Ước, được kết toán theo lệnh Môi-se truyền cho những người Lê-vi, dưới sự hướng dẫn của Y-tha-ma, con trai của thầy tế lễ A-rôn. 22 Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ, thuộc bộ tộc Giu-đa, làm tất cả những gì Đức Giê-hô-va đã truyền dạy Môi-se, 23 cùng với người phụ tá Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc bộ tộc Đan, là thợ chạm, người thiết kế, thợ thêu sợi gai mịn với chỉ xanh, chỉ đỏ tía và đỏ thắm.
24 Tổng số vàng đã dâng được dùng vào việc xây dựng Nơi Thánh khoảng một nghìn ký, theo đơn vị đo lường của Nơi Thánh. 25 Tổng số bạc của những người được kể vào hội chúng là ba nghìn bốn trăm ba mươi ký, theo đơn vị đo lường của Nơi Thánh. 26 Tất cả những người thuộc diện kiểm tra dân số từ hai mươi tuổi trở lên, tức là sáu trăm lẻ ba nghìn năm trăm năm mươi người, mỗi đầu người nộp sáu gam, theo đơn vị đo lường của Nơi Thánh. 27 Ba nghìn bốn trăm ký bạc dùng để đúc các lỗ trụ của Đền Thánh và các lỗ trụ màn; ba nghìn bốn trăm ký cho một trăm lỗ trụ, tức ba mươi bốn ký cho mỗi lỗ trụ. 28 Ba mươi ký còn lại thì dùng làm móc trụ, bọc các đầu trụ và làm thanh liên kết cho các trụ. 29 Tổng số đồng được đóng góp là hai ngàn bốn trăm ký. 30 Đồng đó được dùng làm lỗ trụ của cửa Lều Hội Kiến, bàn thờ bằng đồng, rá đồng và các dụng cụ của bàn thờ, 31 các lỗ trụ chung quanh hành lang, các lỗ trụ cửa hành lang, các cọc của Đền Tạm, và các cọc chung quanh hành lang.
Bình luận
Hầu việc Đức Chúa Trời tại nơi làm việc
Bạn không cần phải rời bỏ công việc của mình để có thể hầu việc Đức Chúa Trời hết lòng. Trong cuộc đời của Bết-sa-lê-ên, chúng ta thấy một tấm gương về người đã tận dụng cuộc đời mình để phục vụ Đức Chúa Trời ngay tại nơi làm việc. Công việc hằng ngày của ông chính là chức vụ chính yếu của ông.
Đức Chúa Trời ban đầy dẫy Thánh Linh Ngài cho dân sự để họ làm việc: ‘Ta đã ban cho người ấy Thần của Đức Chúa Trời, ban cho sự khéo léo, trí thông minh, tri thức và tài năng trong mọi ngành nghề để sáng tạo các kiểu mẫu… người là một thợ thủ công tài giỏi’ (Xuất Ê-díp-tô Ký 31:3–5, MSG).
Bết-sa-lê-ên là một nhà điêu khắc. Ông được Đức Chúa Trời chọn để xây dựng đền tạm (Xuất Ê-díp-tô Ký 37:1; xem thêm 31:1–5). Ông đáp ứng lời kêu gọi của Đức Chúa Trời và ‘đã làm mọi điều Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se’ (38:22). Ông làm việc trong một nhóm, bao gồm một nhà thiết kế tên là Ô-hô-li-áp (c.23), và cùng nhau họ đã làm nên những việc vĩ đại cho Đức Chúa Trời. Bí quyết thành công của ông chính là việc ông được đầy dẫy ‘Thần của Đức Chúa Trời’ (31:3; 35:31).
Một người có thể là một nhạc sĩ, nhà văn hay họa sĩ tài năng mà không cần đầy dẫy Thánh Linh. Nhưng khi Thánh Linh Đức Chúa Trời đổ đầy trên những người làm các công việc này, công việc của họ thường bước vào một chiều kích mới—tác động thuộc linh mạnh mẽ hơn. Điều này có thể đúng ngay cả khi tài năng thiên bẩm của họ không quá xuất sắc. Tấm lòng có thể được chạm đến và cuộc đời có thể được biến đổi. Không nghi ngờ gì, điều gì đó giống như vậy đã xảy ra với Bết-sa-lê-ên.
Cầu nguyện
Pippa chia sẻ
Châm Ngôn 6:10-11
"Ngủ một chút, chợp mắt một chút, khoanh tay nằm nghỉ một chút..."
Tôi nghĩ điều này nghe có vẻ rất ổn. Nhưng câu 11 lại giống như một cú sốc vậy:
"thì sự nghèo khổ sẽ đến với ngươi như kẻ trộm cắp..."
Tôi không muốn bị bắt quả tang khi đang chợp mắt, dù điều đó thật sự quá cám dỗ, để rồi bỏ lỡ tất cả những điều Chúa sắm sẵn cho tôi.
Câu kinh thánh trong ngày
Mác 8:36
"Một người nếu được cả thế gian mà mất linh hồn mình thì có ích gì?"

App
Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.
Sign up now

Book
Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.
- Mua từ Cửa hàng Alpha
- [Mua từ Nhà sách CLC](https://clcbookshops.com/product/bible-in-one-year-the-a-commentary-by-nicky-gumbel-hard-cover-gumbel-nicky-hodder-stoughton- 9781473677067)
Tham khảo
The One Year® là nhãn hiệu đã đăng ký của Tyndale House Publishers. Được sử dụng bởi sự cho phép.
Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng dưới sự cho phép của Hodder & Stoughton Publishers, một công ty của Hachette UK. Đã đăng ký Bản quyền. 'NIV' là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Nhãn hiệu Vương quốc Anh số 1448790.
Thánh Kinh được đánh dấu (MSG) lấy từ The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.