Ngày 233

Làm thế nào để tìm và duy trì sự bình an

Khôn ngoan Thi Thiên 101:1-8
Tân ước I Cô-rinh-tô 14:20-40
Cựu Ước II Sử ký 13:1-15:19

Giới thiệu

Năm 1555, Nicholas Ridley, cựu Giám mục Luân Đôn, bị thiêu trên cọc ở Oxford vì niềm tin của ông. Vào đêm trước ngày hành quyết Ridley, anh trai ông đề nghị ở lại cùng ông trong phòng giam để giúp đỡ và an ủi. Nicholas từ chối lời đề nghị và trả lời rằng ông muốn đi ngủ và ngủ một cách yên lặng như chưa bao giờ trong đời. Vì biết được sự bình an của Đức Chúa Trời nên ông có thể yên nghỉ trong vòng tay vĩnh cửu của Chúa để đáp ứng nhu cầu của mình.

Bình an là một ơn phước lớn lao. 'Bình an' là một từ có ý nghĩa rất lớn trong Kinh thánh. Từ bình an trong tiếng Do Thái, Shalom, được dịch theo từ eirene trong tiếng Hy Lạp, có ý nghĩa sâu xa hơn là không có chiến tranh hay thù địch. Không phải chỉ là sự vắng mặt của những tình huống cụ thể mà là sự hiện diện của Chúa và sự tể trị của Ngài. Ấy là sự trọn vẹn, vững mạnh, hạnh phúc, hiệp nhất với Đức Chúa Trời – mọi loại phước thiêng và điều tốt lành.

Để mang lại sự bình an cho người khác, trước tiên chúng ta cần tìm và nắm giữ sự bình an trong chính mình.

Khôn ngoan

Thi Thiên 101:1-8

Tác giả quyết tâm đi theo con đường trọn vẹn

Thi Thiên của Đa-vít
  1Con sẽ hát xướng về lòng nhân từ và đức công chính của Chúa;
   Lạy Đức Giê-hô-va, con sẽ ca ngợi Ngài.
  2Con sẽ sống cách khôn ngoan theo con đường trọn vẹn;
   Khi nào Chúa sẽ đến với con?

  Con sẽ lấy lòng thành thật
   Mà sống trong nhà con.
  3Con sẽ chẳng để điều gian ác trước mắt con;

  Con ghét công việc của kẻ bất trung,
   Chúng sẽ không dính líu gì đến con.
  4Lòng gian tà sẽ lìa khỏi con;
   Con sẽ chẳng biết đến điều ác.

  5Kẻ lén lút nói xấu người lân cận mình,
   Con sẽ loại trừ.
  Còn kẻ nào có mắt tự cao và lòng kiêu ngạo,
   Con sẽ chẳng dung tha.

  6Mắt con sẽ tìm kiếm người trung tín trong xứ,
   Và cho họ ở chung với con;
  Ai đi theo con đường trọn vẹn
   Sẽ phục vụ con.

  7Kẻ lừa đảo sẽ chẳng được ở trong nhà con;
   Bọn dối trá sẽ không đứng nổi trước mặt con.

  8Mỗi buổi sáng, con sẽ tiêu diệt
   Tất cả kẻ dữ trong xứ,
  Trục xuất mọi kẻ ác
   Khỏi thành của Đức Giê-hô-va.

Bình luận

Bình an với Chúa

‘Bình an’ và ‘im lặng’ – theo nghĩa tích cực – thường đi đôi với nhau. Thi thiên này nói về những kẻ vu khống và kẻ ác bị 'loại trừ’ (c.5–8).

Đa-vít hát về ‘lòng nhân từ và đức công chính’ của Đức Chúa Trời (c.1a). Chúng ta nói nhiều về tình yêu của Chúa nhưng lại không nói nhiều về một điều quan trọng là sự công chính của Ngài. Tình yêu mà không chú ý đến sự công chính thì không phải là tình yêu đích thực, vì tình yêu thật thì khát khao công lý.

Chỉ có người ‘trọn vẹn’ (c.2,6) mới có thể ‘ở’ với Ngài (v.6b), ‘ở chung với’ Ngài (v.6c), ‘đứng’ trước ‘mặt’ của Ngài (c.7). Nói xấu (v.5a), kiêu ngạo (v.5b) và ‘lừa đảo’ (v.7) là tội của miệng, lòng và hành động. Chúng khiến chúng ta phải chịu sự phán xét của Đức Chúa Trời.

Cảm tạ Chúa vì thập giá là nơi ‘tình yêu’ và ‘công lý’ hòa quyện – lẽ thật và lòng thương xót gặp nhau. Đây là nơi Đức Chúa Trời vừa ‘công bình’ vừa xưng công bình cho ai đặt đức tin nơi Ngài (Rô-ma 3:23–26). Không có thập tự giá, chúng ta sẽ bị chia cắt khỏi Chúa (Thi Thiên 101:8).

Cầu nguyện

Thưa Cha, tạ ơn Cha vì nhờ Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ mà con được xưng công chính bởi đức tin và được hòa thuận với Cha (Rô-ma 5:1). Xin giúp con mang thông điệp tình yêu, công lý và bình an này đến cho thế giới.
Tân ước

I Cô-rinh-tô 14:20-40

20Thưa anh em, về sự hiểu biết, đừng nên như trẻ con; nhưng về điều ác, hãy nên như trẻ con. Về sự hiểu biết, hãy nên như người trưởng thành. 21Trong luật pháp có chép:
  “Chúa phán: Ta sẽ phán với dân nầy qua những người nói tiếng khác,
   Và môi miệng người ngoại quốc; dù vậy, chúng sẽ không chịu nghe Ta.”
22Thế thì, các tiếng lạ không phải là dấu hiệu cho người tin, mà cho người không tin; nhưng lời tiên tri không phải là dấu hiệu cho người không tin, mà cho người tin. 23Vậy, khi cả Hội Thánh cùng nhóm lại, tất cả đều nói tiếng lạ, mà có người bình thường và người chưa tin bước vào thì họ không nói rằng anh em điên sao? 24Nhưng nếu tất cả đều nói tiên tri, mà có người không tin và người bình thường bước vào thì họ sẽ bị thuyết phục và phán xét bởi tất cả các lời tiên tri. 25Những điều ẩn giấu trong lòng họ được phơi bày; họ sẽ sấp mình xuống thờ lạy Đức Chúa Trời, và tuyên bố rằng:
  “Đức Chúa Trời thật đang ở giữa anh em.” \t

Trật tự trong giờ nhóm

26Thưa anh em, phải làm như thế nào đây? Khi anh em nhóm lại, người thì có bài thánh ca, người thì có lời dạy dỗ, người thì có sự mặc khải, người thì có tiếng lạ, người thì có sự thông dịch tiếng lạ. Hãy thực hiện tất cả để xây dựng Hội Thánh. 27Nếu có người nói tiếng lạ, thì chỉ nên hai hoặc ba người là tối đa. Mỗi người nói theo thứ tự, và phải có người thông dịch. 28Nếu không có ai thông dịch thì người nói phải yên lặng, chỉ nói với chính mình và với Đức Chúa Trời. 29Cũng chỉ nên có hai hoặc ba người nói tiên tri mà thôi, còn những người khác thì cân nhắc điều họ nói. 30Nhưng nếu có ai ngồi đó nhận được sự mặc khải thì người đang nói phải yên lặng. 31Vì mỗi người trong anh em có thể lần lượt nói tiên tri để ai nấy đều được học hỏi, ai nấy đều được khích lệ. 32Tâm linh của các nhà tiên tri phải thuận phục các nhà tiên tri. 33Vì Đức Chúa Trời không phải là Đức Chúa Trời của sự hỗn loạn, nhưng của sự bình an.
 Như trong tất cả Hội Thánh của các thánh đồ, 34phụ nữ phải giữ yên lặng trong Hội Thánh. Họ không được phép nói, nhưng phải thuận phục như luật pháp đã dạy. 35Nếu muốn tìm biết điều gì, họ nên hỏi chồng mình ở nhà; vì phụ nữ nói giữa Hội Thánh là điều đáng xấu hổ. 36Có phải lời Đức Chúa Trời phát xuất từ anh em, hay chỉ đến với riêng anh em thôi sao?
37Nếu ai nghĩ rằng mình là nhà tiên tri, hay có các ân tứ thuộc linh, thì người ấy cần hiểu rằng, những gì tôi viết cho anh em đây, là mệnh lệnh của Chúa. 38Nếu ai xem thường điều ấy thì đừng quan tâm đến họ.
39Cho nên, thưa anh em, hãy ao ước ân tứ nói tiên tri, và đừng ngăn trở việc nói các tiếng lạ. 40Nhưng hãy thực hiện mọi sự một cách thích hợp và trật tự.

Bình luận

Bình an trong hội thánh

‘Vì Đức Chúa Trời không phải là Đức Chúa Trời của sự hỗn loạn, nhưng của sự bình an’ (c.33). Sứ đồ Phao-lô nói rõ rằng tính sáng tạo và tính tự phát của các ân tứ Thánh Linh không tạo điều kiện cho sự hỗn loạn trong các buổi nhóm của hội thánh. ‘Vì Thượng Đế là Chúa bình an, Ngài không ưa cảnh hỗn loạn. Hội thánh khắp nơi đều giữ trật tự khi hội họp’ (câu 33, BDY).

Phao-lô mô tả con đường dẫn đến những buổi nhóm yên bình, hòa hợp và trật tự trong hội thánh – ‘hãy thực hiện mọi sự một cách thích hợp và trật tự’ (c.40). Cần giữ im lặng một cách thích hợp (c.28) để người khác có thể nói.

Điều này cho chúng ta biết phần nào các buổi nhóm trong hội thánh đầu tiên diễn ra như thế nào. Rõ ràng, người ta mong đợi rằng các ân tứ của Thánh Linh sẽ được thực thi thường xuyên: ‘Khi anh em nhóm lại, người thì có bài thánh ca, người thì có lời dạy dỗ, người thì có sự mặc khải, người thì có tiếng lạ, người thì có sự thông dịch tiếng lạ. Hãy thực hiện tất cả để xây dựng Hội Thánh’ (c.26).

Ân tứ cần phải được thực hiện một cách có trật tự. Không nên có điều gì kỳ lạ hoặc cường điệu về những ân tứ thuộc linh. Có thể một số người sẽ ngạc nhiên khi ca sĩ Katy Perry từng nói: “Đối với tôi, việc nói tiếng lạ cũng bình thường như việc “Đưa một lọ muối”. Đó là một ngôn ngữ cầu nguyện bí mật, trực tiếp với Chúa.”

Lời nhận xét của Phao-lô về lời tiên tri và tiếng lạ là một ‘dấu lạ’ thường gây ra sự nhầm lẫn. Dường như ông muốn nói một điều trong câu 22 (tiếng lạ là dấu hiệu cho người không tin; lời tiên tri dành cho người tin), và rồi điều ngược lại trong câu 23! Tuy nhiên, khó có khả năng Phao-lô mâu thuẫn với chính mình.

Đối với tôi, dường như Phao-lô đang nói rằng cả ân tứ nói tiếng lạ và ân tứ nói tiên tri chỉ nên được sử dụng theo những cách thích hợp. Xuyên suốt chương này, Phao-lô đưa ra những hướng dẫn về cách sử dụng tiếng lạ và lời tiên tri một cách có trật tự trong hội thánh. Khi được sử dụng không thích hợp, cả hai đều có thể là nguồn gốc của sự hỗn loạn (c.6–12 và vv.29–33), trong trường hợp đó, những người không tin sẽ nghĩ rằng chúng ta mất trí.

Nếu được sử dụng một cách thích hợp trong bối cảnh các buổi nhóm của hội thánh, cả tiếng lạ và lời tiên tri đều có thể là dấu hiệu đáng ngạc nhiên về sự hiện diện của Chúa (c.22–25). Lời tiên tri có thể là một ‘dấu hiệu’ mạnh mẽ cho những người không tin rằng ‘Đức Chúa Trời thật đang ở giữa anh em’ (c.25). Chúng ta thường thấy trường hợp này xảy ra.

Trong khi hát tiếng lạ là một hoạt động tập thể thì nói tiếng lạ là một hoạt động cá nhân cần có sự thông dịch. Vì vậy, ‘mỗi người nói theo thứ tự, và phải có người thông dịch. Nếu không có ai thông dịch thì người nói phải yên lặng, chỉ nói với chính mình và với Đức Chúa Trời’ (c.27–28).

Tương tự như vậy, lời tiên tri nên được thực hiện lần lượt. Không có giới hạn về số lượng lời tiên tri. Người nói luôn nắm toàn quyền kiểm soát: ‘Tâm linh của các nhà tiên tri phải thuận phục các nhà tiên tri’ (c.32). Trong thế giới ma quỷ, 'tà linh' chiếm lấy một người và họ mất kiểm soát. Chúa Thánh Linh không như thế. Một người nói tiếng lạ hoặc nói tiên tri có toàn quyền kiểm soát. Họ có thể bắt đầu khi họ chọn và họ có thể dừng khi họ chọn làm như vậy. ‘Vì Đức Chúa Trời không phải là Đức Chúa Trời của sự hỗn loạn, nhưng của sự bình an’ (c.33).

Nhiều lời giải thích đã được đưa ra cho lời dạy của Phao-lô trong câu 34 rằng phụ nữ phải im lặng trong hội thánh. Điều quan trọng cần nhớ là trọng tâm của Phao-lô ở đây không phải là vai trò giới tính mà là việc tiến hành thờ phượng công khai. Ông đang giải quyết một loạt vấn đề cụ thể đã nảy sinh trong hội thánh Cô-rinh-tô. Ông đã nói rõ rằng ông mong đợi phụ nữ phát biểu trong các cuộc họp. Ông viết, ‘bất cứ người nữ nào cầu nguyện hoặc nói tiên tri...’ (11:5).

Điều rõ ràng là mọi người, cả nam lẫn nữ, không chỉ đến với tư cách là người sử dụng mà còn với tư cách là người đóng góp. Câu hỏi chúng ta nên hỏi không phải là “Tôi nhận được gì khi ra khỏi Hội thánh?” mà là “Tôi đang cho đi điều gì ở hội thánh?” Họ không đến chỉ để nhận mà còn để giúp đỡ người khác. ‘Khi anh em nhóm lại, người thì có bài thánh ca, người thì có lời dạy dỗ, người thì có sự mặc khải, người thì có tiếng lạ, người thì có sự thông dịch tiếng lạ. Hãy thực hiện tất cả để xây dựng Hội Thánh’ (14:26, ). Nếu tất cả chúng ta đến Hội thánh với thái độ là người đóng góp, điều đó sẽ thay đổi hoàn toàn buổi thờ phượng của chúng ta.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin giúp chúng con trong tất cả các buổi thờ phượng và các buổi nhóm khác sử dụng các ân tứ của Đức Thánh Linh theo cách mà khi mọi người bước vào hội thánh, 'họ sẽ sấp mình xuống thờ lạy Đức Chúa Trời, và tuyên bố rằng: “Đức Chúa Trời thật đang ở giữa anh em”' (c.25).
Cựu Ước

II Sử ký 13:1-15:19

A-bi-gia, vua Giu-đa, chiến thắng Giê-rô-bô-am, vua Y-sơ-ra-ên

(I Vua 15:1-8)

13 Năm thứ mười tám đời trị vì của Giê-rô-bô-am, A-bi-gia lên làm vua Giu-đa. 2Vua cai trị ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Mi-ca-gia, con gái của U-ri-ên ở Ghi-bê-a.
 Lúc bấy giờ, chiến tranh xảy ra giữa A-bi-gia và Giê-rô-bô-am. 3A-bi-gia ra trận với một lực lượng bốn trăm nghìn quân tinh nhuệ, là những chiến sĩ dũng cảm; còn Giê-rô-bô-am đem tám trăm nghìn quân tinh nhuệ, cũng là những chiến sĩ dũng cảm, ra nghênh chiến. 4A-bi-gia đứng trên núi Xê-ma-ra-im trong miền núi Ép-ra-im và nói: “Hỡi Giê-rô-bô-am và toàn thể Y-sơ-ra-ên, hãy nghe! 5Các ngươi không biết rằng, do giao ước bằng muối, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã ban quyền cai trị vương quốc Y-sơ-ra-ên cho Đa-vít và cho con cháu người đến đời đời sao? 6Thế nhưng, Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát là đầy tớ của Sa-lô-môn, con của Đa-vít, đã nổi lên chống lại chủ mình. 7Những tên vô lại, côn đồ đều tụ tập lại theo hắn. Chúng mạnh mẽ chống lại Rô-bô-am, con của Sa-lô-môn, trong khi Rô-bô-am thì trẻ người non dạ, không đủ sức chống lại chúng.
8Vậy bây giờ, các ngươi tưởng rằng với quân đội đông đảo, có bò con vàng mà Giê-rô-bô-am đã đúc làm thần cho các người, thì các người có thể chống lại vương quốc mà Đức Giê-hô-va đã ban cho con cháu Đa-vít sao? 9Chẳng phải các người đã đuổi những thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va, là con cháu A-rôn, và người Lê-vi sao? Các người đã theo phong tục của các dân ngoại mà lập những thầy tế lễ cho mình; bất cứ ai đem đến một con bò tơ đực và bảy con chiên đực để dâng tế lễ thì được làm thầy tế lễ cho thần không phải là thần. 10Nhưng về phần chúng tôi, Giê-hô-va vẫn là Đức Chúa Trời của chúng tôi, chúng tôi không lìa bỏ Ngài. Những thầy tế lễ, là con cháu của A-rôn, đều phụng sự Đức Giê-hô-va, và các người Lê-vi giữ phần việc của họ. 11Mỗi buổi sáng và buổi chiều, họ dâng tế lễ thiêu và xông hương cho Đức Giê-hô-va. Họ cũng sắp bánh cung hiến trên bàn thanh sạch, thắp các đèn trên chân đèn bằng vàng cho cháy sáng vào mỗi buổi chiều tối. Vì chúng tôi vâng giữ mệnh lệnh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi, còn các người lại bỏ đi. 12Nầy, Đức Chúa Trời ở cùng và lãnh đạo chúng tôi. Những thầy tế lễ của Ngài cầm kèn thúc quân thổi vang lên chống lại các người. Hỡi con cái Y-sơ-ra-ên! Đừng chiến đấu chống lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các người, vì các người không thắng được đâu!”
13Trong khi đó, Giê-rô-bô-am sai quân mai phục đi vòng phía sau quân Giu-đa. Như thế, quân Y-sơ-ra-ên ở phía trước, còn quân mai phục của họ ở phía sau quân Giu-đa. 14Lúc quân Giu-đa quay lại, kìa, địch quân đã có mặt phía trước và phía sau. Họ liền kêu cầu Đức Giê-hô-va, còn các thầy tế lễ thì thổi kèn. 15Bấy giờ, người Giu-đa hò hét xung trận. Khi người Giu-đa hò hét thì Đức Chúa Trời đánh bại Giê-rô-bô-am và toàn thể Y-sơ-ra-ên trước mặt A-bi-gia và người Giu-đa. 16Quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn quân Giu-đa, và Đức Chúa Trời phó họ vào tay quân Giu-đa. 17A-bi-gia và quân lính của vua đánh bại và làm cho quân Y-sơ-ra-ên tổn thất nặng nề; có năm trăm nghìn quân tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên ngã chết. 18Như vậy, trong trận ấy quân Y-sơ-ra-ên bị hạ nhục, còn quân Giu-đa thắng trận vì họ nhờ cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. 19A-bi-gia truy đuổi Giê-rô-bô-am và chiếm các thành: Bê-tên và các vùng phụ cận, Giê-sa-na và các vùng phụ cận, Ép-rôn và các vùng phụ cận. 20Suốt thời trị vì của A-bi-gia, Giê-rô-bô-am không còn khôi phục thế lực được nữa. Cuối cùng, Giê-rô-bô-am bị Đức Giê-hô-va đánh phạt và chết. 21Còn A-bi-gia được cường thịnh. Vua lấy mười bốn người vợ, sinh được hai mươi hai con trai và mười sáu con gái. 22Các việc khác của A-bi-gia, những đường lối và việc làm của vua đều được chép trong sách bình luận của nhà tiên tri Y-đô.

Hòa bình dưới thời vua A-sa

14 A-bi-gia an giấc cùng tổ phụ mình và được an táng trong thành Đa-vít. Thái tử A-sa lên ngai kế vị. Trong thời trị vì của vua nầy, xứ sở được hòa bình mười năm. 2A-sa làm điều thiện và ngay thẳng dưới mắt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình. 3Vua dẹp bỏ các bàn thờ của thần ngoại bang và những nơi cao, đập bể các trụ thờ và phá hủy các tượng A-sê-ra. 4Vua truyền bảo dân Giu-đa phải tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, làm theo luật pháp và điều răn của Ngài. 5Vua cũng dẹp bỏ những nơi cao và các bàn thờ dâng hương khỏi các thành của Giu-đa. Vương quốc được hòa bình dưới thời trị vì của vua. 6Vua xây dựng các thành trì kiên cố trong đất Giu-đa vì đất nước được hòa bình. Trong thời kỳ nầy không có chiến tranh vì Đức Giê-hô-va ban cho vua được nghỉ ngơi. 7Vua nói với dân Giu-đa: “Chúng ta hãy xây dựng các thành nầy, đắp tường lũy chung quanh, dựng tháp, làm cửa có then cài. Đất nước vẫn còn thuộc về chúng ta vì chúng ta đã tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta; chúng ta đã tìm kiếm Ngài nên Ngài ban cho chúng ta bình an mọi bề.” Thế là họ xây dựng và đã thành công.
8A-sa có một quân đội gồm ba trăm nghìn người Giu-đa được trang bị khiên và giáo, hai trăm tám mươi nghìn người Bên-gia-min được trang bị thuẫn và cung; tất cả đều là những dũng sĩ.

A-sa thắng quân Cút

9Xê-rách, người Cút, kéo một lực lượng gồm một triệu quân với ba trăm cỗ xe tiến đánh người Giu-đa, và họ đi đến Ma-rê-sa. 10A-sa kéo ra nghênh chiến và dàn trận trong thung lũng Xê-pha-ta gần Ma-rê-sa. 11A-sa cầu khẩn Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình: “Lạy Đức Giê-hô-va! Ngoài Chúa, chẳng ai giúp người yếu thắng được người mạnh. Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con! Xin giúp đỡ chúng con, vì chúng con nương cậy nơi Ngài. Nhân danh Chúa, chúng con đương đầu cùng đoàn quân đông đảo nầy. Đức Giê-hô-va ôi! Ngài là Đức Chúa Trời của chúng con, xin đừng để loài người thắng hơn Chúa!” 12Đức Giê-hô-va đánh bại quân Cút trước mặt dân Giu-đa và vua A-sa; quân Cút bỏ chạy. 13A-sa và quân của vua truy đuổi chúng cho đến Ghê-ra. Quân Cút ngã chết và bị quét sạch không còn một ai sống sót; chúng bị đánh tan trước mặt Đức Giê-hô-va và đạo quân của Ngài. Người Giu-đa chiếm được rất nhiều chiến lợi phẩm. 14Họ cũng tiến đánh các thành chung quanh Ghê-ra vì Đức Giê-hô-va giáng sự kinh khiếp trên các thành đó. Quân của A-sa cướp lấy rất nhiều của cải trong các thành ấy. 15Họ còn đánh chiếm các nông trại súc vật, bắt đem đi rất nhiều chiên và lạc đà, rồi trở về Giê-ru-sa-lem.

A-sa loại bỏ việc thờ hình tượng

15 Thần Đức Chúa Trời ngự trên A-xa-ria, con trai của Ô-đết. 2Ông đi đón vua A-sa và nói: “Xin vua A-sa cùng toàn thể dân Giu-đa và Bên-gia-min nghe tôi nói! Các ngươi theo Đức Giê-hô-va chừng nào thì Đức Giê-hô-va ở với các ngươi chừng nấy. Nếu các ngươi tìm kiếm Ngài thì sẽ gặp được Ngài; nếu các ngươi lìa bỏ Ngài thì Ngài sẽ lìa bỏ các ngươi. 3Đã lâu nay, Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời thật, không có thầy tế lễ dạy dỗ, cũng chẳng có luật pháp. 4Nhưng trong lúc khốn khó, họ trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên mà tìm kiếm Ngài thì lại gặp được Ngài. 5Trong thời gian ấy, không một ai vào ra được bình an, vì tất cả cư dân các nước đều rối loạn. 6Nước nầy giày đạp nước kia, thành nầy giày đạp thành nọ, vì Đức Chúa Trời khuấy rối chúng bằng đủ thứ khổ nạn. 7Nhưng các ngươi hãy vững lòng, đừng buông tay bỏ cuộc, vì công việc mình sẽ được đền đáp.”
8Khi A-sa đã nghe các lời nầy là lời tiên tri của nhà tiên tri Ô-đết thì vua thêm can đảm. Vua dẹp bỏ những thần tượng ghê tởm khỏi toàn cõi Giu-đa và Bên-gia-min, và khỏi các thành mà vua đã chiếm được trên miền núi Ép-ra-im. Vua sửa lại bàn thờ của Đức Giê-hô-va trước hành lang của đền thờ. 9Vua tập hợp tất cả những người Giu-đa, người Bên-gia-min và những kiều dân thuộc các bộ tộc Ép-ra-im, Ma-na-se và Si-mê-ôn đang cư trú giữa họ; vì có nhiều người bỏ Y-sơ-ra-ên đến theo vua A-sa khi thấy Giê-hô-va Đức Chúa Trời ở cùng vua. 10Vào tháng ba, năm thứ mười lăm đời trị vì của A-sa, họ tụ họp tại Giê-ru-sa-lem. 11Lúc ấy, họ lấy bảy trăm con bò đực và bảy nghìn con chiên trong số chiến lợi phẩm đã mang về làm tế lễ dâng lên Đức Giê-hô-va. 12Họ kết ước với nhau hết lòng hết ý tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ mình. 13Tất cả những ai không tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên thì sẽ bị xử tử, bất luận nhỏ hay lớn, nam hay nữ. 14Họ lớn tiếng thề nguyện cùng Đức Giê-hô-va, reo mừng, thổi kèn và tù và. 15Toàn thể Giu-đa vui mừng về lời thề ấy, vì họ hết lòng thề nguyện, hết sức tìm kiếm Đức Giê-hô-va và gặp được Ngài. Đức Giê-hô-va ban cho họ được bình an tứ phía.
16Vì Ma-a-ca, mẹ vua A-sa, đã làm một hình tượng ghê tởm cho thần A-sê-ra nên vua A-sa cách chức thái hậu của bà, đánh đổ hình tượng ấy và nghiền nát rồi thiêu đốt trong thung lũng Xết-rôn. 17Tuy các nơi cao chưa bị dẹp bỏ khỏi Y-sơ-ra-ên, nhưng A-sa vẫn trọn lòng với Chúa suốt đời. 18Vua đem vào đền thờ Đức Giê-hô-va các vật mà vua cha và chính mình đã biệt riêng ra thánh gồm vàng, bạc và các vật dụng. 19Bấy giờ, không có chiến tranh cho đến năm thứ ba mươi lăm đời trị vì của A-sa.

Bình luận

Bình an trong đất nước

Chiến tranh tàn phá các quốc gia (15:5,6). Nó đem đến cái chết, sự hủy diệt và thường là nghèo đói. Mặt khác, bình an cho phép một quốc gia được xây dựng và trở nên thịnh vượng (14:7).

Khi A-sa trở thành Vua Giu-đa, ‘Xứ sở được hòa bình được mười năm’ (c.1). Sự bình an này là một món quà của Chúa, ‘Đức Giê-hô-va ban cho vua được nghỉ ngơi’ (c.6).

Sự bình an và nghỉ ngơi này diễn ra như thế nào? Câu trả lời mà tác giả Sử ký đưa ra ít nhất là ba phần:

1. Hết lòng tìm kiếm Chúa

Chính khi họ ‘kêu cầu Đức Giê-hô-va’ (13:14) thì Chúa ‘Đức Chúa Trời đánh bại Giê-rô-bô-am và toàn thể Y-sơ-ra-ên trước mặt A-bi-gia và người Giu-đa’ (c.15). A-sa 'truyền bảo dân Giu-đa phải tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời’ (14:4). Ông nói với người dân: ‘"Chúng ta hãy xây dựng các thành nầy, đắp tường lũy chung quanh, dựng tháp, làm cửa có then cài. Đất nước vẫn còn thuộc về chúng ta vì chúng ta đã tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta; chúng ta đã tìm kiếm Ngài nên Ngài ban cho chúng ta bình an mọi bề.” Thế là họ xây dựng và đã thành công’ (c.7)

Tiên tri A-xa-ria nói: ‘Nếu các ngươi tìm kiếm Ngài thì sẽ gặp được Ngài; nếu các ngươi lìa bỏ Ngài thì Ngài sẽ lìa bỏ các ngươi’ (15:2). ‘Nhưng trong lúc khốn khó, họ trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên mà tìm kiếm Ngài thì lại gặp được Ngài’ (c.4). ‘Họ kết ước với nhau hết lòng hết ý tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ mình’ (c.12).

Họ hết lòng tìm kiếm Chúa và ‘Đức Giê-hô-va ban cho họ được bình an tứ phía' (c.15).

2. Vâng lời Chúa hoàn toàn

Khi A-sa nghe lời tiên tri, ‘vua thêm can đảm’ (c.8). A-sa nói với Giu-đa rằng 'Vua truyền bảo dân Giu-đa phải tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, làm theo luật pháp và điều răn của Ngài' (14:4). Nhà tiên tri A-xa-ria đã nói: ‘Nếu các ngươi lìa bỏ Ngài thì Ngài sẽ lìa bỏ các ngươi’ (15:2). Đoạn kinh thánh này là một ví dụ về sự thành tín của Chúa đối với chúng ta khi chúng ta chọn vâng phục Ngài một cách trọn vẹn.

3. Hoàn toàn trông cậy vào Chúa

‘... quân Giu-đa thắng trận vì họ nhờ cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ’ (13:18). ‘Họ nhờ cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời’ (c.18)‘. 'A-sa cầu khẩn Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình: “Lạy Đức Giê-hô-va! Ngoài Chúa, chẳng ai giúp người yếu thắng được người mạnh. Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con! Xin giúp đỡ chúng con, vì chúng con nương cậy nơi Ngài. Nhân danh Chúa, chúng con đương đầu cùng đoàn quân đông đảo nầy. Đức Giê-hô-va ôi! Ngài là Đức Chúa Trời của chúng con, xin đừng để loài người thắng hơn Chúa!”' (14:11).

Đây là ý nghĩa của việc ‘trọn lòng với Chúa suốt đời’ (15:17). Kết quả là công việc của A-sa đã được đền đáp (c.7) và Chúa là Đức Chúa Trời của ông ở cùng ông (c.9). Có sự bình an và nghỉ ngơi.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, con muốn hết lòng tìm kiếm Chúa, vâng lời Chúa trọn vẹn và hoàn toàn trông cậy vào Chúa. Con cầu nguyện cho sự an nghỉ và bình an trong cuộc sống của chính con, trong hội thánh, trên đất nước chúng con và giữa các quốc gia.

Pippa chia sẻ

Trong II Sử ký 15:5 có nói:

'Trong thời gian ấy, không một ai vào ra được bình an, vì tất cả cư dân các nước đều rối loạn.’

Chúng ta thật may mắn khi được sống trong thời điểm mà việc đi lại khắp Vương quốc Anh hầu như luôn an toàn. Ngày nay có nhiều nơi trên thế giới đang xảy ra ‘tình trạng hỗn loạn khủng khiếp’ – người ta chạy trốn khỏi sự đàn áp, chiến tranh và các chế độ tàn bạo. Chúng ta cần tiếp tục cầu nguyện và hỗ trợ những người đang nỗ lực cho sự thay đổi.

Câu kinh thánh trong ngày

II Sử ký 15:7

'Nhưng các ngươi hãy vững lòng, đừng buông tay bỏ cuộc, vì công việc mình sẽ được đền đáp.'

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

Sign up now
reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

Trừ khi có quy định khác, các trích dẫn Kinh thánh lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, trước đây là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Được sử dụng với sự cho phép của Nhà xuất bản Hodder & Stoughton, một công ty của Hachette Vương quốc Anh. Đã đăng ký Bản quyền. ‘NIV’ là nhãn hiệu đã đăng ký của Biblica. Số nhãn hiệu Vương quốc Anh 1448790.

Kinh thánh được đánh dấu (MSG) được lấy từ Bản dịch The Message. Bản quyền © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002. Được sử dụng dưới sự cho phép của NavPress Publishing Group.

Change Language

Bible in One Year is available in the following languages:

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more