Ngày 209

Sự kêu gọi của bạn chẳng bao giờ thay đổi

Khôn ngoan Thi Thiên 89:19-29
Tân ước Rô-ma 11:11-32
Cựu Ước 1 Sử Ký 4:9-5:26

Giới thiệu

Cha tôi, giống như bao người Do Thái, chưa bao giờ sống ở Y-sơ-ra-ên Người Do Thái sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Năm 1948, nhà nước Y-sơ-ra-ên được tái lập. Ngày nay có khoảng 9,5 triệu người sống ở Y-sơ-ra-ên, trong đó có khoảng 7 triệu người là người Do Thái. Có rất nhiều người Do Thái khác vẫn còn sống rải rác trên khắp thế giới.

Tôi thích cách Eugene Peterson dịch đoạn Tân Ước ngày hôm nay bằng cách sử dụng thuật ngữ ‘người trong cuộc’ cho người Do Thái và ‘người ngoài cuộc’ cho những người không phải Do Thái.

Nhiều cá nhân người Do Thái trong nhiều năm đã trở thành Cơ đốc nhân. Trên thực tế, tất cả những Cơ đốc nhân đầu tiên đều là người Do Thái 'trong cuộc'. Nhưng hiện nay đại đa số các người tin vào Thiên Chúa đều là những “người ngoài cuộc” không phải là người Do Thái. Tương lai nào dành cho 'người trong cuộc'?

Chìa khóa cho sự hiểu biết của Thánh Phao-lô nằm ở Rô-ma 11:29: ‘vì các sự ban cho và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời chẳng bao giờ thay đổi.’ Đây là chủ đề xuyên suốt Kinh Thánh như chúng ta thấy trong các đoạn văn hôm nay.

Khôn ngoan

Thi Thiên 89:19-29

19 Bấy giờ, Chúa phán với người thánh của Chúa qua khải tượng, rằng: “Ta đã đặt một dũng sĩ để giúp đỡ ngươi, Và tôn cao một người được lựa chọn giữa vòng dân chúng.

20 Ta đã tìm được Đa-vít là đầy tớ Ta, Xức cho người bằng dầu thánh của Ta,

21 Bàn tay Ta sẽ nâng đỡ người, Cánh tay Ta sẽ làm cho người mạnh mẽ.

22 Quân thù sẽ chẳng áp bức người, Kẻ ác cũng sẽ không hạ nhục người được.

23 Ta sẽ chà nát kẻ thù của người ngay trước mặt người. Và cũng đánh gục những kẻ ghét người.

24 Nhưng sự thành tín và sự nhân từ Ta sẽ ở cùng người; Trong danh Ta, sừng người sẽ được ngước lên.

25 Ta cũng sẽ đặt tay người trên biển, Và tay phải người trên các dòng sông.

26 Người sẽ gọi Ta rằng: ‘Ngài là Cha của con, Là Đức Chúa Trời của con và là vầng đá cứu rỗi của con.’

27 Ta cũng sẽ lập người làm con trưởng nam Ta, Là vua cao trọng hơn hết các vua trên đất.

28 Ta sẽ cứ giữ lòng nhân từ Ta đối với người cho đến đời đời, Và làm cho giao ước giữa Ta với người được vững bền.

29 Ta cũng sẽ làm cho dòng dõi người còn đến đời đời Và ngôi người sẽ tồn tại như các ngày của trời.

Bình luận

Giao ước của Thiên Chúa với dân Người sẽ tồn tại mãi mãi

Chúng ta thấy trong giao ước với Đa-vít rằng những món quà và lời kêu gọi của Thiên Chúa là không thể thay đổi.

Thiên Chúa gọi ‘một chàng trai trẻ’ từ trong dân Ngài (c.19c). Ngài đã tặng những món quà cho chàng trai trẻ ấy. Ngài ‘ban sức mạnh’ (c.19b). Ngài ‘xức dầu’ cho ông (c.20b). Ngài hứa rằng tình yêu của Ngài sẽ ở bên ông (c.24a) và Ngài sẽ duy trì tình yêu đó mãi mãi: ‘Giao ước giữa Ta với người được vững bền. Ta cũng sẽ làm cho dòng dõi người còn đến đời đời, Và ngôi người sẽ tồn tại như các ngày của trời. (c.28b–29).

Lời hứa này được ban cho Vua Đa-vít (2 Sa-mu-ên 7:12–16) và được lặp lại qua các thế hệ. Rồi sau đó, trong sách Ê-sai, điều đã hứa với Đa-vít cũng được hứa với dân Y-sơ-ra-ên: ‘Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước đời đời, tức là tình yêu vững bền của Ta dành cho Đa-vít.’ (Ê-sai 55:3b).

Thánh Phaolô cho chúng ta biết cách rõ ràng tất cả những điều này đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-xu. Ông viết: 'Còn chúng tôi thì rao truyền cho anh em Tin Lành mà Đức Chúa Trời đã hứa cho tổ phụ chúng ta rằng Ngài đã làm ứng nghiệm lời hứa đó cho chúng ta, là con cháu của họ, bằng cách khiến Đức Chúa Jêsus sống lại’(Công vụ 13:32–33). Ông tiếp tục trích dẫn Ê-sai 55:3, ‘‘Ta sẽ ban cho các con phước hạnh thánh và chắc chắn mà Ta đã hứa với Đa-vít.’ (Công vụ 13:34).

Đức Chúa Trời hứa rằng Ngài sẽ duy trì tình yêu của Ngài dành cho bạn mãi mãi, qua Chúa Giê-xu, bạn được thừa hưởng tất cả những phước lành Ngài đã hứa với Vua Đa-vít. Bạn được yêu thương. Bạn được xức dầu. Thiên Chúa sẽ ban cho bạn sức mạnh. Lời kêu gọi của bạn chẳng bao giờ thay đổi.

Cầu nguyện

Lạy Cha, cảm tại Cha vì tình yêu chung thủy của Cha đã dành cho con. Ngày hôm nay, con kêu cầu lên Cha: ‘‘Ngài là Cha của con, là Đức Chúa Trời của con và là vầng đá cứu rỗi của con.’’ (Thi Thiên 89:26).
Tân ước

Rô-ma 11:11-32

Sự cứu chuộc đến với dân ngoại

11 Vậy tôi xin hỏi, có phải dân Y-sơ-ra-ên đã vấp chân đến nỗi phải ngã nhào không? Chẳng hề như vậy! Nhưng do sự phạm tội của họ mà sự cứu rỗi đã đến với dân ngoại để khiến họ ganh đua. 12 Nếu sự phạm tội của họ đã làm giàu cho thế gian, và nếu sự thất bại của họ đã làm giàu cho dân ngoại thì sự sung mãn của họ sẽ càng làm giàu hơn biết chừng nào!

13 Tôi nói với anh em là các dân ngoại: Bao lâu tôi còn làm sứ đồ cho dân ngoại, tôi sẽ còn làm rạng rỡ chức vụ mình 14 để khơi dậy lòng ganh đua của đồng bào tôi, và cứu được một số người trong họ. 15 Vì nếu việc họ bị loại bỏ đã đem lại sự hòa giải cho cả thế gian, thì việc họ được tiếp nhận chẳng phải là sự sống đến từ cõi chết sao? 16 Nếu phần bột đầu tiên được dâng là thánh thì cả đống bột cũng thánh; nếu rễ là thánh thì các cành cũng thánh.

17 Nhưng nếu có một vài cành bị cắt đi, và bạn vốn là cây ô-liu hoang được ghép vào chỗ các cành ấy để được chia sẻ nhựa sống từ rễ cây ô-liu 18 thì đừng có kiêu hãnh với các cành đó. Nếu bạn kiêu hãnh thì hãy nhớ rằng không phải bạn chịu đựng cái rễ, nhưng là cái rễ chịu đựng bạn. 19 Bạn sẽ nói: “Các cành đã bị cắt đi, để ta được ghép vào.” 20 Đúng vậy. Các cành đó đã bị cắt đi vì lòng vô tín của chúng, còn bạn chỉ đứng vững được nhờ đức tin. Đừng kiêu ngạo, nhưng hãy sợ hãi. 21 Vì nếu Đức Chúa Trời đã không tiếc các cành tự nhiên thì Ngài cũng chẳng tiếc bạn đâu.

22 Vậy hãy nhìn biết sự nhân từ và sự nghiêm khắc của Đức Chúa Trời: Nghiêm khắc đối với những ai đã ngã, nhưng nhân từ đối với bạn, miễn là bạn tiếp tục giữ mình trong sự nhân từ của Ngài; nếu không, bạn cũng sẽ bị cắt bỏ. 23Còn với người Do Thái, nếu họ không miệt mài trong sự vô tín thì cũng sẽ được ghép vào, vì Đức Chúa Trời có quyền ghép họ lại. 24 Vì nếu tự bản chất, bạn vốn là cây ô-liu hoang mà được cắt và ghép vào cây ô-liu tốt, trái với tự nhiên, huống chi họ vốn là những cành tự nhiên lại đáng được ghép vào chính cây ô-liu của mình càng hơn!

Dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu

25 Thưa anh em, tôi muốn anh em hiểu sự mầu nhiệm nầy để anh em không tự cho mình là khôn ngoan, đó là: Một phần dân Y-sơ-ra-ên cứ cứng lòng cho đến khi số dân ngoại gia nhập đầy đủ. 26 Như vậy cả dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu, như có lời chép:

“Đấng Giải Cứu sẽ đến từ Si-ôn,
Cất bỏ sự vô đạo khỏi nhà Gia-cốp”;
27“Và đây là giao ước Ta lập với họ,
Khi Ta xóa bỏ tội lỗi họ.”

28 Theo Tin Lành, họ là kẻ thù của Đức Chúa Trời, điều đó có lợi cho anh em; nhưng theo sự lựa chọn, họ được yêu thương nhờ các tổ phụ mình; 29 vì các sự ban cho và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời chẳng bao giờ thay đổi. 30 Như anh em trước kia không vâng phục Đức Chúa Trời, mà bây giờ được thương xót nhờ sự không vâng phục của họ, 31 thì cũng vậy, bây giờ họ đã không vâng phục để nhờ sự thương xót tỏ ra cho anh em, họ cũng được thương xót. 32 Vì Đức Chúa Trời đã nhốt mọi người trong chỗ không vâng phục, để thương xót mọi người.

Bình luận

Lời hứa của Đức Chúa Trời dành cho dân Y-sơ-ra-ên sẽ thắng thế

Như chúng ta đã thấy, trong Rô-ma 11, Thánh Phao-lô đã trả lời câu hỏi: 'Có phải Đức Chúa Trời đã từ bỏ dân Ngài không?' Câu trả lời của ông là 'Không, không, không': 'Các sự ban cho và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời chẳng bao giờ thay đổi' (c.29). ‘Những món quà và lời kêu gọi của Chúa được bảo đảm tuyệt đối – không bao giờ bị hủy bỏ, không bao giờ bị phủ nhận’ (c.29, MSG).

Tuy nhiên, Thánh Phao-lô vẫn phải đấu tranh với một thực tế hiển hiện là hầu hết mọi người đều chưa chấp nhận Chúa Gê-xu. Thánh Phao-lô nói về việc họ 'vấp ngã' (c.11) và trải qua sự 'cứng lòng' (c.25). Bây giờ họ giống như những cành ô-liu bị ‘cắt đi’ (c.17). Làm thế nào điều này có thể phù hợp với những lời hứa không thể phá vỡ mà Thiên Chúa đã ban cho dân Ngài trong Cựu Ước?

  1. Sự cứng lòng này chỉ là một phần. Luôn có một số người được chọn bởi ân điển Thiên Chúa (c.11–16).

  2. Từ sự cứng lòng đã đơm hoa kết trái, vì nó dẫn đến sự giàu có cho dân ngoại: ‘Khi họ bước ra, họ để cửa mở cho người ngoài bước vào’ (c.11, MSG).

  3. Sự cứng lòng chỉ là tạm thời. “Họ có vĩnh viễn xa rời Thiên Chúa không?” Và câu trả lời rõ ràng là Không’ (c.11, MSG). ‘Sự cứng lòng của một số người Y-sơ-ra-ên đối với Thiên Chúa chỉ là tạm thời’ (c.25, MSG). 'Bây giờ, nếu sự ra đi của họ kích hoạt những 'người ngoài cuộc' không phải người Do Thái đến với vương quốc Thiên Chúa trên toàn thế giới, hãy tưởng tượng sự tác động của việc họ quay trở lại! Đó quả thật là trở về nhà!' (v.12, MSG).

Điểm cuối cùng này đặc biệt quan trọng đối với Phao-lô, người rất quan tâm đến người dân mình. Ông háo hức mong đợi sự tham gia đầy đủ của người dân Y-sơ-ra-ên (c.12). Ông tiếp tục nói rằng ‘tất cả dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu’ (c.26). Ông không dùng từ ‘nếu’ điều này xảy ra, mà là ‘khi’ điều này xảy ra. Ông dùng cây ô-liu làm hình tượng về dân tộc Do Thái (c.17,24). Chúa Giê-xu đã đến. Dân tộc này đã từ chối ông. Cái cây đã bị chặt đi nhưng rễ vẫn còn. Người làm vườn ghép cây vào dân ngoại (c.17).

Đã đến lúc các nhánh Do Thái sẽ được ghép lại (c.23–24, MSG). Như thế, toàn bộ cây sẽ được hoàn thiện. Dân ngoại lớn lên từ gốc cây – họ không hỗ trợ phần gốc (người Do Thái) nhưng gốc sẽ hỗ trợ họ (c.18). Có ba giai đoạn liên tiếp trong việc hoàn thành kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa:

  1. Sự vô tín của phần lớn dân Y-sơ-ra-ên: ‘các cành đã bị cắt đi’ (c17, MSG)

  2. Sự tham gia của nhiều 'người ngoài cuộc' thông qua đức tin nơi Chúa Giê-xu: ‘các chồi ô-liu dại đã được ghép vào’ (c.17, MSG)

  3. Sự cứu chuộc của ‘tất cả dân Y-sơ-ra-ên’ (c.26)

Nhưng ‘tất cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu’ nghĩa là gì? Một số người lập luận rằng điều đó có nghĩa là dân Y-sơ-ra-ên vẫn có thể được cứu nếu không có Đấng Christ. Tuy nhiên, quan điểm này không đáng tin cậy. Phao-lô đã lập luận xuyên suốt bức thư rằng Chúa Giê-xu là con đường cứu rỗi.

Những người khác cho rằng điều đó có nghĩa là toàn bộ quốc gia Y-sơ-ra-ên, bao gồm từng người một, sẽ đặt niềm tin vào Chúa Giê-xu. Tuy nhiên, 'tất cả dân Y-sơ-ra-ên' là một cách diễn đạt lặp đi lặp lại trong Cựu Ước và các tài liệu Do Thái khác, ở đó nó không có nghĩa là 'mọi người Do Thái và không có một ngoại lệ nào' mà là 'toàn thể dân Y-sơ-ra-ên' (ví dụ, 1 Sa-mu-ên 7:5; 28:1; 1 Các Vua 12:1; Đa-ni-ên 9:11). Điều này cũng phù hợp với bối cảnh của những gì Phao-lô đang nói trong thư Rô-ma.

Phao-lô nhìn nhận Đức Chúa Trời đối xử với dân tộc Y-sơ-ra-ên như một thể thống nhất. Vì vậy, ‘sự sung mãn của họ’ (Rô-ma 11:12) phải được hiểu theo cùng một nghĩa với sự sung mãn của Dân Ngoại. Tiếp theo sự cải đạo quy mô lớn của dân ngoại trên toàn thế giới là sự cải đạo quy mô lớn của dân Y-sơ-ra-ên.

Phao-lô kết luận: Cách đây không lâu lắm, khi bạn chưa là con cái Đức Chúa Trời. Nhưng rồi người Do Thái đóng sầm cánh cửa lại trước Ngài và mọi chuyện mở ra cho bạn. Bây giờ họ đang là người ngoài cuộc. Nhưng với cánh cửa luôn rộng mở cho bạn, họ cũng được chừa đường quay về. Bằng cách này hay cách khác, Thiên Chúa đảm bảo rằng tất cả chúng ta đều trải nghiệm ý nghĩa của việc ngoài cuộc để Thiên Chúa có thể đích thân mở cửa và chào đón chúng ta quay về (c.30–32, MSG).

Cầu nguyện

Cảm tạ Cha, Đức Chúa, vì những món quà và ơn kêu gọi của Cha không bao giờ thay đổi. Con xin cầu nguyện rằng chúng con sẽ sớm chứng kiến không chỉ một cuộc hoán cải trên quy mô lớn của dân ngoại trên toàn thế giới mà còn cả một cuộc hoán cải trên quy mô lớn của người dân Y-sơ-ra-ên.
Cựu Ước

1 Sử Ký 4:9-5:26

9 Gia-bê được tôn trọng hơn anh em mình; mẹ ông đặt tên là Gia-bê, vì nói rằng: “Ta sinh nó trong sự đau đớn.” 10 Gia-bê khấn nguyện với Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên rằng: “Ôi, xin Chúa ban phước dồi dào cho con, mở rộng bờ cõi con. Nguyện tay Chúa phù hộ con, giữ con khỏi mọi điều ác, để con thoát cơn khốn khổ!” Đức Chúa Trời ban cho đúng như điều ông cầu xin.

11 Kê-lúp, anh em của Su-ha, sinh Mê-hia, tổ phụ của Ê-tôn. 12 Ê-tôn sinh Bết Ra-pha, Pha-sê-a, và Tê-hi-na, tổ tiên của dân thành Na-hách. Đó là những người sống trong thành Rê-ca.

13 Các con của Kê-na là Ốt-ni-ên và Sê-ra-gia. Con trai của Ốt-ni-ên là Ha-thát. 14 Mê-ô-nô-thai sinh Óp-ra; Sê-ra-gia sinh Giô-áp là người sáng lập Ghê Kha-ra-sim vì dân ở đây đều là thợ thủ công. 15 Các con của Ca-lép, cháu của Giê-phu-nê, là: Y-ru, Ê-la, và Na-am, cùng những con trai của Ê-la và Kê-na.

16 Các con của Giê-ha-lê-le là Xíp, Xi-pha, Thi-ria, và A-sa-rên.

17 Các con của E-xơ-ra là Giê-the, Mê-rết, Ê-phe, và Gia-lôn. Vợ của Mê-rết sinh Mi-ri-am, Sa-mai, và Dít-bác, người sáng lập Ếch-tê-mô-a. 18 Vợ khác của ông là người Giu-đa sinh Giê-rệt, người sáng lập Ghê-đô, Hê-be, người sáng lập Sô-cô, và Giê-cu-ti-ên, người sáng lập Xa-nô-a. Đó là con cháu của Bi-thia, con gái của Pha-ra-ôn, mà Mê-rết đã cưới.

19 Các con của vợ Hô-đia, em gái Na-ham, là người sáng lập Kê-hi-la của người Gạc-mít, và Ếch-tê-mô-a của người Ma-ca-thít.

20 Các con của Si-môn là Am-nôn, Ri-na, Bên Ha-nan, và Ti-lôn. Các con của Di-si là Xô-hết và Bên Xô-hết.

21 Dòng dõi của Sê-la, một trong các con trai Giu-đa, là: Ê-rơ, người sáng lập Lê-ca; La-ê-đa, người sáng lập Ma-rê-sa; và các gia tộc của nhà Ách-bê-a, là những thợ dệt vải gai; 22 Giô-kim, dân Cô-xê-ba, Giô-ách, Sa-ráp là người cai trị ở Mô-áp, và Gia-su-bi Lê-hem. Đó là điều ghi chép từ xưa. 23 Những người nầy là thợ gốm ở Nê-ta-im và Ghê-đê-ra; họ ở đó để làm việc cho vua.

Dòng dõi Si-mê-ôn

24 Các con của Si-mê-ôn là Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, Xê-rách, và Sau-lơ.

25 Con của Sau-lơ là Sa-lum, con của Sa-lum là Míp-sam, và con của Míp-sam là Mích-ma,

26 con của Mích-ma là Ham-mu-ên, con của Ham-mu-ên là Xa-cu, con của Xa-cu là Si-mê-i. 27 Si-mê-i có mười sáu con trai và sáu con gái, nhưng anh em của ông không có nhiều con; cả gia tộc của họ không đông bằng người Giu-đa. 28 Họ ở tại Bê-e Sê-ba, Mô-la-đa, Ha-xa Su-anh, 29 Bi-la, Ê-xem, Tô-lát, 30 Bê-tu-ên, Họt-ma, Xiếc-lác, 31 Bết Ma-ca-bốt, Hát-sa Su-sim, Bết Bi-rê, và Sa-a-ra-im. Đó là các thành của họ cho đến đời vua Đa-vít. 32 Họ cũng có năm thị trấn là: Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken, và A-san, 33 cùng các vùng phụ cận của năm thị trấn nầy cho đến thành Ba-anh. Đó là chỗ ở và gia phả của họ.

34Mê-sô-báp, Giam-léc, Giô-sa, con của A-ma-xia; 35 Giô-ên và Giê-hu, con của Giô-xơ-bia, cháu Sê-ra-gia, chắt A-si-ên; 36 Ê-li-ô-ê-nai, Gia-cô-ba, Giê-sô-hai-gia, A-sa-gia, A-đi-ên, Giê-si-mi-ên, Bê-na-gia, 37 Xi-xa, con của Si-phi, cháu của A-lôn, chắt của Giê-đa-gia, chít của Sim-ri, là con trai của Sê-ma-gia.

38 Những người được kể đích danh ở trên là các trưởng gia tộc. Tông tộc của họ đã gia tăng rất nhiều. 39 Họ sang Ghê-đô, đến bên phía đông của thung lũng, để tìm đồng cỏ cho bầy súc vật của mình. 40 Họ tìm được đồng cỏ xanh tươi, đất đai rộng rãi, yên tịnh và an toàn; trước kia dòng dõi Cham sinh sống ở đó.

41 Trong đời Ê-xê-chia, vua nước Giu-đa, những người kể trên đã kéo đến đánh các trại quân của dòng dõi Cham và những người Ma-ô-nít ở đó, tận diệt chúng, chiếm lấy đất, và định cư thay vào đó cho đến ngày nay; vì tại đó có đồng cỏ để nuôi bầy súc vật của họ. 42 Về sau, trong dòng dõi Si-mê-ôn có năm trăm người tiến đến núi Sê-i-rơ; các người lãnh đạo họ là Phê-la-tia, Nê-a-ria, Rê-pha-gia, và U-xi-ên; đó là các con trai của Di-si. 43 Họ tiêu diệt những người A-ma-léc còn sót lại, rồi ở đó cho đến ngày nay.

Dòng dõi Ru-bên

1 Vì Ru-bên, con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, làm ô uế giường của cha mình nên quyền con trưởng được trao cho các con của Giô-sép, là con trai Y-sơ-ra-ên. Vì vậy, ông không được ghi vào gia phả như là con trưởng nam. 2 Dù Giu-đa trổi hơn anh em mình, và một nhà lãnh đạo sẽ từ nơi ông mà ra, nhưng quyền con trưởng vẫn thuộc về Giô-sép. 3 Đây là các con của Ru-bên, con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên: Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn, và Cạt-mi.

4 Con của Giô-ên là Sê-ma-gia, con của Sê-ma-gia là Gót, con của Gót là Si-mê-i, 5 con của Si-mê-i là Mi-ca, con của Mi-ca là Rê-a-gia, con của Rê-a-gia là Ba-anh, 6 con của Ba-anh là Bê-ê-ra, người bị Tiếc-lát Phin-nê-se, vua nước A-si-ri, bắt lưu đày. Bê-ê-ra là thủ lĩnh của người Ru-bên.

7 Anh em của Bê-ê-ra được chép vào gia phả theo gia tộc mình: Đứng đầu là Giê-i-ên, rồi đến Xa-cha-ri, 8 Bê-la, con của A-xa, cháu Sê-ma, chắt của Giô-ên; Bê-la ở tại A-rô-e cho đến Nê-bô và Ba-anh Mê-ôn. 9 Về phía đông, ông chiếm đất từ lối vào hoang mạc đến tận sông Ơ-phơ-rát, vì trong xứ Ga-la-át bầy súc vật của họ gia tăng rất nhiều.

10 Trong thời vua Sau-lơ, họ đánh nhau với dân Ha-ga-rít, chiến thắng chúng, và chiếm các lều trại chúng trong khắp vùng phía đông xứ Ga-la-át.

Dòng dõi của Gát

11 Con cháu của Gát ở đối diện họ trong xứ Ba-san, cho đến Sanh-ca. 12 Đứng đầu là Giô-ên, thứ đến là Sa-pham, rồi Gia-nai và Sa-phát ở Ba-san.

13 Anh em theo gia tộc của họ có bảy người: Mi-ca-ên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xia và Ê-be.

14 Đó là con cháu của A-bi-hai, A-bi-hai con của Hu-ri, Hu-ri con của Gia-rô-a, Gia-rô-a con của Ga-la-át, Ga-la-át con của Mi-ca-ên, Mi-ca-ên con của Giê-si-sai, Giê-si-sai con của Giác-đô, Giác-đô con của Bu-xơ. 15 A-hi con của Áp-đi-ên, Áp-đi-ên con của Gu-ni; A-hi làm trưởng gia tộc.

16 Họ ở Ga-la-át, Ba-san cùng các vùng phụ cận xứ ấy, và tất cả các đồng cỏ Sa-rôn cho đến ranh giới cuối cùng của nó.

17 Những người nầy đã được ghi vào gia phả trong thời vua Giô-tham nước Giu-đa, và trong thời vua Giê-rô-bô-am nước Y-sơ-ra-ên.

18 Trong con cháu bộ tộc Ru-bên, Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se, số người khỏe mạnh, có thể cầm khiên, cầm gươm, giương cung, và thạo việc chiến đấu là bốn mươi bốn nghìn bảy trăm sáu mươi người sẵn sàng ra trận. 19 Họ giao chiến với dân Ha-ga-rít, dân Giê-tua, dân Na-phi, và dân Nô-đáp. 20 Trong khi giao chiến, họ kêu cầu Đức Chúa Trời, và vì họ có lòng tin cậy Ngài nên Ngài giúp đỡ họ, phó dân Ha-ga-rít và liên minh của chúng vào tay họ. 21 Họ bắt các bầy súc vật của chúng gồm: năm mươi nghìn lạc đà, hai trăm năm mươi nghìn chiên, hai nghìn lừa; họ cũng bắt một trăm nghìn tù binh. 22 Có nhiều người ngã chết, vì trận chiến nầy là do Đức Chúa Trời. Họ chiếm cứ đất dân ấy và ở đó cho đến khi bị bắt lưu đày.

Dòng dõi của Ma-na-se

23 Con cháu của nửa bộ tộc Ma-na-se ở trong vùng đất từ Ba-san cho đến Ba-anh Hẹt-môn, Sê-nia, và núi Hẹt-môn; dân số họ rất đông.

24 Đây là các trưởng gia tộc trong dòng dõi họ: Ê-phe, Di-si, Ê-li-ên, Át-ri-ên, Giê-rê-mi, Hô-đa-via, và Giắc-đi-ên; họ là những dũng sĩ can trường và nổi danh. 25 Nhưng họ phạm tội với Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, và bán mình cho các thần của những dân tộc trong xứ mà Đức Chúa Trời đã hủy diệt trước mặt họ. 26 Vì thế, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã giục lòng Phun, vua nước A-si-ri, và Tiếc-la Phi-lê-se, cũng vua nước A-si-ri, đến bắt người của bộ tộc Ru-bên, Gát, và nửa bộ tộc Ma-na-se, đem họ đến Ha-la, Cha-bo, Ha-ra, và miền gần sông Gô-xan, là nơi họ còn ở cho đến nay.

Bình luận

Phẩm chất rộng lượng của Thiên Chúa và các phước lành của Ngài không bao giờ thay đổi

Thiên Chúa nắm quyền kiểm soát tối thượng trên lịch sử. Lời kêu gọi và những món quà của Ngài không bao giờ thay đổi. Những gì được ứng nghiệm trong Tân Ước đều bắt đầu từ Cựu Ước. Sử kỹ ghi lại lịch sử của Y-sơ-ra-ên ngay từ thưở khởi đầu. Đức Chúa Trời là Đấng Tối Thượng – ‘trận chiến này là do Đức Chúa Trời’ (5:22).

Phải chăng điều này có nghĩa là chúng ta chỉ là những con tốt? Phải chăng chúng ta chỉ đơn giản là những quân cờ được di chuyển trên bàn cờ của Chúa mà không có sự lựa chọn hay ý chí tự do nào không? Không điều gì là đúng hết.

Bạn được tham gia vào các kế hoạch của Chúa. Hành động của bạn tạo nên sự khác biệt - dù tốt hay xấu.

1. Chống lại những hành vi thiếu trung thực

Hành động của ta có thể khiến ta đánh mất đi phước lành của Thiên Chúa: 'Dù Ru-bên là con đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên, sau khi ông ngủ với vợ lẽ của cha mình, một hành động ô uế... Ru-bên đã mất đi vị trí "con đầu lòng" trong gia phả' (c.1, MSG) . Ông đã mất đi một cơ nghiệp lớn vì không thể kiểm soát được ham muốn của mình.

Chúng ta đều cần phải hết sức cẩn thận để chống lại cám dỗ và không để cho ham muốn xác thịt hay cảm xúc khiến chúng ta bỏ lỡ phước lành từ Thiên Chúa.

2. Hãy là người trọng danh dự

Mặt khác, Gia-bê là người trọng danh dự (4:9, MSG). Lời cầu nguyện của Jabez đã tạo nên sự khác biệt. ‘Gia-bê cầu nguyện với Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên: “Xin ban phước cho tôi, Ôi xin hãy ban phước cho tôi! Hãy cho tôi đất, những vùng đất rộng lớn. Và ban cho tôi sự bảo vệ của Ngài – đừng để cái ác làm tổn thương tôi.” Chúa đã ban cho ông điều ông cầu xin’ (c.10, MSG).

Đây không phải là lời cầu nguyện vị tha nhất trong Kinh Thánh! Nhưng tuy nhiên, Thiên Chúa đã đáp lại lời cầu nguyện đó. Chúa Giê-xu dạy chúng ta nhiều điều, một trong số đó là cầu nguyện, ‘Xin cho chúng con hôm nay thức ăn đủ ngày’ (Ma-thi-ơ 6:11). Mối quan tâm đầu tiên của chúng ta nên là vinh quang của Thiên Chúa, vương quốc và thánh ý Ngài. Nhưng không có gì sai khi cầu xin Chúa ban phước lành, sự hiện diện, bảo vệ và chữa lành trên cuộc sống của chúng ta.

Tương tự như vậy, Thiên Chúa đã ban cho dân Ngài chiến thắng ‘Trong khi giao chiến, họ kêu cầu Đức Chúa Trời, và vì họ có lòng tin cậy Ngài nên Ngài giúp đỡ họ' (1 Sử ký 5:20).

'Trận chiến này là do Đức Chúa Trời' (c.22). Ngài có quyền kiểm soát tối thượng. Tuy nhiên, lời cầu nguyện của bạn sẽ tạo nên sự khác biệt.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, cảm tạ Chúa vì ơn gọi của con là không bao giờ thay đổi. Cảm ơn Cha vì trận chiến này là của Cha. Cảm tạ Cha vì những lời cầu nguyện của con có thể tạo nên sự khác biệt. Và Cha ơi, hôm nay con kêu cầu lên Cha giúp đỡ con trong những trận chiến mà con phải đối mặt…

Pippa chia sẻ

Trong 1 Sử ký 4:9-10, chúng ta đọc thầy lời cầu nguyện của Gia-bê. Có lẽ tôi đã dành quá nhiều thời gian để cầu nguyện cho tôi và gia đình. Lời cầu nguyện của Jabez nghe có vẻ khá ích kỷ, nhưng dường như Chúa đã đáp lại lời cầu nguyện đó.

Câu kinh thánh trong ngày

Rô-ma 11:29

Các sự ban cho và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời chẳng bao giờ thay đổi.

reader

App

Tải xuống ứng dụng Kinh Thánh Trong Một Năm dành cho thiết bị iOS hoặc Android và đọc theo mỗi ngày.

reader

Email

Đăng ký ngay bây giờ để nhận Kinh thánh trong một năm trong hộp thư đến của bạn mỗi sáng. Bạn sẽ nhận được một email mỗi ngày.

Sign up now
reader

Website

Bắt đầu đọc sự tận tâm của ngày hôm nay ngay tại đây trên trang web BiOY.

Read now
reader

Book

Kinh thánh trong một năm bình luận có sẵn như là một cuốn sách.

Tham khảo

Trừ khi có quy định khác, các đoạn trích dẫn được lấy từ Kinh thánh, Phiên bản quốc tế mới được Anh hóa, Bản quyền © 1979, 1984, 2011 Biblica, tiền thân là Hiệp hội Kinh thánh Quốc tế. Cuốn sách được sử dụng với sự cho phép của Nhà xuất bản Hodder & Stoughton, một công ty của Hachette UK và đã được đăng ký bản quyền. 'NIV' là thương hiệu đã đăng ký của Biblica. Số nhãn hiệu Vương Quốc Anh: 1448790.

Các trích dẫn Kinh Thánh được ký hiệu (MSG) được lấy từ The Message. Copyright © 1993, 1994, 1995, 1996, 2000, 2001, 2002 và đã được cho phép sử dụng với sự cho phép của NavPress Publishing Group.

Change Language

Bible in One Year is available in the following languages:

This website stores data such as cookies to enable necessary site functionality and analytics. Find out more